✨Nguyễn Quang Bích

Nguyễn Quang Bích

Nguyễn Quang Bích (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là Ngô Quang Bích, tự Hàm Huy, hiệu Ngư Phong; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại vùng Tây Bắc (Việt Nam).

Thân thế và sự nghiệp

Nguyễn Quang Bích sinh ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (tức 7 tháng 5 năm 1832) tại làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).

Ông vốn họ Ngô, nhưng do ông nội ông đổi sang họ ngoại là họ Nguyễn nên sử sách thường gọi ông là Nguyễn Quang Bích . Nguyễn Quang Bích là học trò của Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị. Năm 1858 đỗ tú tài. Đến khi Phạm Văn Nghị chuyển làm Thương Biện Hải Dương - Hải Phòng thì ông theo học tiến sĩ Doãn Khuê. Năm 1861, ông đỗ cử nhân và ông được bổ làm Giáo thụ phủ Trường Khánh, tỉnh Ninh Bình.nhưng ông dâng sớ xin không nhậm chức và ở nhà học thêm đồng thời mở trường dạy học. Lúc này ông thấy tình hình úng lụt cánh đồng Tam Tổng ông đã đứng ra vận động xây cống Tam Đồng.Lúa tốt năm hai vụ đến nay.

Năm Kỷ Tỵ (1869), thời Tự Đức, ông đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức Hoàng giáp). Sau đó ông được cử làm Tri phủ tại phủ Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ ngày nay), rồi Tri phủ Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa ngày nay) và lần lượt làm Án sát tỉnh Sơn Tây, Tế tửu Quốc tử giám Huế, Án sát tỉnh Bình Định.

Năm Ất Hợi (1875), được vua Tự Đức giao cho duyệt bộ sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Hai năm sau triều đình mở doanh điền Hưng Hóa (tức tỉnh Phú Thọ ngày nay) vừa khai hoang vừa phòng vệ vùng núi rừng Tây Bắc, ông được cử làm Chánh sơn phòng sứ. Đến năm sau (1878) ông kiêm thêm chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa. Tại đây, Nguyễn Quang Bích phối hợp với Tôn Thất Thuyết, Hoàng Tá Viêm vừa đánh dẹp vừa lôi kéo phân hóa các đội quân người Trung Quốc mà sử cũ gọi là "giặc khách" (tàn dư của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất). Đặc biệt, trong số người mà Nguyễn Quang Bích cảm hóa được có Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh đội quân Cờ Đen (dư đảng của Thái Bình Thiên quốc).

Cũng thời kỳ này ông đã cho thành lập các đội dân binh ở khắp vùng Tây Bắc để chống giặc cờ trắng và cờ vàng. Điển hình là Sa Văn Nội ở Mộc Châu, Nông Văn Quang ở Văn Chấn, Cầm Hánh Cầm Tám ở Nghĩa Lộ, Đèo Văn Toa, Đèo Văn Trì, Cầm Bun Hoan vùng Lai Châu Điện Biên.Mỗi đoàn quân có từ 400 đến hơn 1000 tay súng, và là lực lượng chống Pháp sau này

Năm 1883 lợi dung tình hình nước ta rối ren nhà Thanh cử hai binh đoàn với hàng chục vạn quân do 2 tướng Hoàng Quế Lan và Triệu Ốc vào nước ta. Nguyễn Quang Bích đã dâng sớ tâu vua tỏ ý lo ngại việc này. Vua Tự Đức đã không thấy được nhãn quan chính trị sắc bén của ông mà trách ông rằng: đem bụng tiểu nhân đo lòng quân tử!. Ông lại dâng sớ vạch rõ những hành vi của đội quân này vào nước ta để vơ vét đòi chia đất với Pháp, lúc đo vua mới lệnh cho triệt binh quan Thanh về nước.

Sự nghiệp kháng Pháp

Ngày 12 tháng 4 năm 1884, thành Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích cai quản bị quân Pháp với lực lượng hơn 7000 quân do hai viên tướng khét tiếng đàn áp nghĩa quân là Negrie và Briedlin chia làm hai mũi có pháo thuyền và đại bác yểm trợ đánh hạ, ông trèo lên Kính Thiên đài định tuẫn tiết, nhưng nhờ quân sĩ phá vòng vây cứu ra. Sau đó, ông thu tàn quân chạy về Tứ Mỹ, tiếp theo là Áo Lộc rồi lên Tiên Động (nay thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ) lập căn cứ và dựng cờ khởi nghĩa kháng Pháp. Cờ thêu 4 chữ "Bình Tây Báo Quốc" và lời tuyên thệ "Việt quốc thiên thu nguyên bất dịch, Lạc Hồng tiên chủng phục hoàn tô" khẳng định chủ quyền dân tộc.

Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Cam Lộ (Quảng Trị), ban bố dụ Cần Vương. Biết Nguyễn Quang Bích là người có chí và có tài đức, nhà vua phong ông làm Hiệp biện Đại học sĩ, Lễ bộ thượng thư, sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu; lãnh nhiệm vụ tổ chức kháng chiến ở Bắc Kỳ (văn từ Tham tán, võ từ Đề Đốc được quyền liệu nghi lục dụng". Năm sau (1886). Bố Chính Nguyễn Văn Giáp đưa quân từ Tuần Quán về hiệp lực, Bố Giáp nhận sắc phong Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ Đại thần, Phấn Trung tướng quân,Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, được giao chỉ huy đánh thắng nhiều trận ở Thanh Mai,Tứ Mỹ,Tiên Động...Nhiều sĩ phu các vùng miền xa xôi đã tìm đến Tiên Động cùng ông mưu bàn việc phục quốc như Vũ Hữu Lợi, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, Trần Ngọc Dư, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Hoan, Nguyễn Tử Ngôn, Đốc Nhưỡng, Đề Quảng, Đàm Chí Trạch, Tống Duy Tân, ông Nguyễn Thiện Thuật được cử về phục dựng lại phong trào Bãi Sậy của Đinh Gia Quế lúc đó đang gặp khó khăn và ông Tống Duy Tân sau đó nổi lên với cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh...

Kể từ đó, với uy tín của mình, ông vừa trực tiếp chỉ huy phong trào, vừa tìm cách liên hệ để phối hợp với các phong trào khác như Phan Đinh Phùng ở Thanh Nghệ, Đèo Văn Trì (thủ lĩnh người Thái), Nông Văn Quang, Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Thanh,...Ngoài ra, ông còn lôi kéo được nhiều sĩ phu, tù trưởng và đông đảo người dân (gồm các dân tộc Kinh, Thái, Mường, Mông) trong vùng tham gia chiến đấu hay ủng hộ kháng chiến.

Trong hai năm 1885-1886, Vua Hàm Nghi đã hai lần cử sang Trung Quốc cầu viện, (nhưng việc không thành, vì triều đình nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp), ông được các quan lại miền nam Trung Quốc tư giúp 600 khẩu súng 60 hòm đạn và 2000 cân thuốc phiện chi dụng cho quân trang...

Cuối năm 1886, Nguyễn Quang Bích trở về nước, do yêu cầu mới về chiến lược, chuẩn bị cho việc đón vua Hàm Nghi ra Bắc, nên ông và Nguyễn Văn Giáp (tức Bố Giáp,một Danh tướng,một cộng sự đắc lực) bèn đem quân lên Nghĩa Lộ (trước thuộc châu Văn Chấn, nay là thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái) xây dựng căn cứ mới.

Tháng 4 năm 1888, Soái phủ Nam Kỳ gửi thêm viện binh ra Bắc Kỳ. Ngay sau đó, quân Pháp chia làm hai đạo mở cuộc hành quân lên Nghĩa Lộ. Đạo thứ nhất gồm 400 quân do Thiếu tá Bose chỉ huy, đi từ Ngòi Hút (tức Đại Lịch). Đạo thứ hai gồm 384 quân do Thiếu tá Berger chỉ huy tiến từ Ngòi Lao. Dọc đường cả hai đạo quân đều chịu thiệt hại nặng vì bị mai phục và dịch bệnh, nên mặc dù chiếm được một số nơi mà vẫn phải triệt hồi.

Cuối năm 1887 sau khi phó tướng Nguyễn Văn Giáp hy sinh, cầm cự ở đây thêm ít tháng nữa thì Nguyễn Quang Bích mang quân rời Nghĩa Lộ đến châu Yên Lập, là một huyện miền núi của tỉnh Hưng Hóa nay thuộc Phú Thọ, để củng cố phong trào kháng chiến tại vùng này. Pháp đưa chiến thư dụ ông đầu hàng sẽ chu cấp bổng lộc hậu. Ông đã trả lời đanh thép rằng: "Thắng mà sống thì là nghĩa sĩ triều đinh. Chẳng may mà thua mà chết thì cũng làm quỷ thiêng giết giặc. Ta thà "chịu tội" với nhất thời, quyết không mắc tội với vạn thế!"

Và từ nơi đây, ông đã phái nhiều đạo quân đi đánh phá nhiều nơi. Công cuộc đang thu được một số kết quả, thì bất ngờ ông lâm bệnh nặng rồi mất tại núi Tôn Sơn, (thuộc xã Mậu Mộ Xuân, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ) ngày rằm tháng 12 năm Canh Dần (tức 24 tháng 1 năm 1890)

Phong trào kháng Pháp bị giảm sút nặng nề sau cái chết của ông. Tuy nhiên, công cuộc kháng Pháp do ông và các đồng đội đã dày công gây dựng vẫn chưa chấm dứt hoàn toàn mà còn được tiếp tục ở miền hạ lưu sông Đà, nổi bật là cuộc chién đấu ở Thanh Sơn]] do Đốc Ngữ làm thủ lĩnh, ở vùng sông Thao do Đề Kiều chỉ huy... và Hùng Lĩnh (Thanh Hoa) do Tống Duy Tân lúc này thay ông với chức Hiệp Thống Bắc Kỳ chỉ huy đến tận năm 1893 mới chấm dứt nhưng cuộc chiến đấu vùng Lạng Giang - Yên thế lại bùng lên và tiếp tục cho đến những năm đầu thế kỷ XX.

Sự nghiệp văn chương

Nguyễn Quang Bích để lại Ngư phong thi tập (Tập thơ Ngư Phong), gồm 112 bài thơ bằng chữ Hán phần lớn theo các thể Đường luật, sáng tác trong những năm ông lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp, biểu lộ tiếng nói bi phẫn, đặc trưng cho một giai đoạn lịch sử. Ngoài ra, ông còn có các bài văn, câu đối, liễn điếu viếng các đồng đội tử trận. Đặc biệt "Thư trả lời quân Pháp" với lời lẽ khẳng khái, ý chí quyết hi sinh vì độc lập, dân tộc . Và " Văn sách thi Đình" thể hiện tư tưởng "Trọng dân" của ông. Trong đó có câu nổi tiếng: "Trời nhìn nhận cũng như dân nhìn nhận, trời nghe cũng như dân nghe, lòng dân ở đâu tức ý trời ơ đó". (Ví dân như trời ít ai dám viết trước mặt thiên tử). Khoa Kỷ Tỵ ông đỗ Đình Nguyên Hoàng Giáp. Được vào bệ kiến vua. Theo Thông lệ vị Đình Nguyên được dâng biểu tâu điều tâm đắc nhất của mình. Trong biểu có câu: Sở vị bàn căn biệt lợi khí chi thu, phi thần chi sở cảm ngôn, thí như Ưng Chiên trục Ô Thước chi tâm tố thần chi sở nguyện học. Nghĩa là: Nếu như bảo chém gỗ quánh mới biết búa sắc thần không dám nói, ví như chim Ưng Chiên, đánh đuổi loài Quạ thần quyết noi theo. Ông như nhắc khéo vua việc đánh đuổi xâm lược Pháp lấy lại lục tỉnh...Nói đi đôi với làm, và cả cuộc đời ông sau đó đã chiến đấu chống thực dân Pháp đến hơi thở cuối cùng

Ghi nhận công lao

Sử gia Phạm Văn Sơn viết Nguyễn Quang Bích được người dân đương thời "coi như "Phật sống", ngoài ra ca ngợi ông "biết tài mà tiến cử họ Lưu [Lưu Vĩnh Phúc]". Tác giả cũng nhấn mạnh ông "khẳng khái từ chối" chiêu dụ hàng của thực dân Pháp

Nhà sử học Trần Văn Giầu ca ngợi nghĩa khí của Nguyễn Quang Bích với "tư tưởng yêu nước, vì nước quên thân", có sức mạnh "hiệu triệu đoàn kết và khích lệ "

Nhà sử học Pháp Charles fourniau viết: "Nguyễn Quang Bích chỉ huy vùng phía Tây châu thổ... ông là hiện thân như mẫu của những nhà nho yêu nước, tạo nên linh hồn của cuộc kháng chiến của dân tộc..."

Ngày nay, tên Nguyễn Quang Bích được đặt cho một con phố thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (nguyên vào thời Pháp thuộc là hai phố Phạm Phú Thứ và phố Hội Tin lành). Phố Nguyễn Quang Bích dài khoảng 120 mét, nối phố Phùng Hưng với phố Nguyễn Văn Tố). Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho các đường phố ở các địa phương khác, như ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Huế, thành phố Đà Nẵng, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.thành phố Thái Bình, thị xã Nghĩa lộ....và nhiều nơi lập đền thờ ông như Khe Cháu Yên Lập, Hưng Hoá Tam Nông, Tiên Động huyện Cẩm Khê, Trình Phố Tiền Hải Thái Bình. Ngoài ra tương truyền các địa danh như làng Cố Đô (sơn tây) Làng Trình Xá (lâm Thao) và Làng Mè (phú thọ) đã lập sinh từ thờ ông.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Nguyễn Quang Bích** (tên thật **Phùng Quang Bích**) (sinh năm 1922) là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng; nguyên Chủ nhiệm Khoa Chỉ huy Tham mưu thuộc Học
**Nguyễn Hoàng Bích** sinh năm 1953 tại Quảng Nam, là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2022. ## Tiểu sử Nguyễn Hoàng Bích sinh ngày
**Nguyễn Thị Bích Ngọc** (sinh 1961) là một nữ chính khách Việt Nam. Bà nguyên là Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP Hà Nội nhiệm kì 2016-2021, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng
**Nguyễn Thị Bích Thùy** (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1994) là cầu thủ bóng đá chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ bóng đá Thái Nguyên T&T và đội tuyển quốc
**Nguyễn Ngọc Bích** (1911–1966) là một kỹ sư, bác sĩ và chính khách người Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội.
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nguyễn Văn Giáp** (1837 -1887), tục gọi là **Bố Giáp** (vì ông từng làm chức Bố chính tỉnh Sơn Tây), là một lãnh tụ và danh tướng trong phong trào Cần Vương ở vùng Tây
**Nguyễn Quang Thiện**, sinh năm 1625, không rõ năm mất, quê tại xã Triều Khẩu, huyện Hưng Nguyên, trấn Nghệ An, nay là xã Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông thi Đình
Chiến sĩ **Nguyễn Quang Lộc** (1953) là một quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam, được trao danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do thành tích bắn rơi 5 máy
**Nguyễn Thiện Thuật** (1844-1926), tên tự là **Mạnh Hiếu**, còn gọi là **Tán Thuật** (do từng giữ chức Tán tương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, một trong các cuộc khởi nghĩa của phong
**Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh** (30 tháng 5 năm 1930 – 21 tháng 11 năm 2023) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục chính tòa
**Lương Bích Hảo** (), thường được biết đến với nghệ danh **Lương Bích Hữu** (, sinh ngày 1 tháng 9 năm 1984), là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên kiêm người mẫu người
**Nguyễn Nhược Bích** (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự **Lang Hoàn** (嫏嬛), phong hiệu **Tam giai Lễ tần** (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Thần Hiến** (1857-1914), tự: **Phác Đình**, hiệu: **Chương Chu**; là người đã sáng lập ra "Quỹ Khuyến Du học hội" nhằm vận động và hỗ trợ cho học sinh sang Nhật Bản học, là
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Quảng Ngãi** là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc vùng Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Cẩm Thành, cách Thành phố Hồ Chí Minh
**Lân Bích** (tên khai sinh: **Nguyễn Quang Bích**, sinh năm 1934) là nam diễn viên người Việt Nam. ## Thời thơ ấu Lân Bích, tên thật là Nguyễn Quang Bích, sinh năm 1934 tại Hà
**Ngô Quang Đoan** (1872 - 1945) tự là **Ch­ương Phủ** (章甫), hiệu là **T­ượng Phong** là một nhà thơ và một nhà chí sĩ chống Pháp. Ông còn là con cả nhà văn thân yêu
Đại lão Hòa thượng **Thích Thanh Bích** (1912 – 2013) là một tu sĩ Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng từng đảm trách ngôi vị Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Hữu Cương** (1855-1912) là một nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tích cực chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. ## Tiểu sử Nguyễn Hữu Cương sinh năm 1855,ông
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Đình Ánh** (1 tháng 1 năm 1940 – 14 tháng 4 năm 2016) thường được biết đến với nghệ danh **Nguyễn Ánh 9**, là một nhạc sĩ, nhạc công dương cầm người Việt Nam.
**Nguyễn Huệ Chi** sinh ngày 4 tháng 7 năm 1938, là một giáo sư người Việt Nam, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam cổ, trung và cận đại; nguyên Trưởng phòng Văn học Việt
Trường THPT Nguyễn Trung Trực là một trong những ngôi trường có bề dày truyền thống và uy tín hàng đầu trong tỉnh. Được thành lập từ năm 1951, trường mang tên vị anh hùng
**Nguyễn Thiện Dương** (?-1888), còn gọi là **Lãnh Giang**, là 1 thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp của khởi nghĩa Bãi Sậy trong phong trào Cần Vương. ## Thân thế Năm sinh của ông không
**Nguyễn Kiệm** (1916-1951) là một nhà cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. ## Thân thế sự nghiệp Ông sinh năm 1916 tại xóm Hóp, làng Công Trung, tổng Quan Hóa, huyện Đông
**Bích Khê** (24 tháng 3 năm 1916 - 17 tháng 1 năm 1946), tên thật là **Lê Quang Lương**; là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thời tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
Henriette Bùi Quang Chiêu **Henriette Bùi Quang Chiêu** (1906 – 2012) là một nữ bác sĩ người Việt. Bà được biết đến là nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam. ## Tiểu sử Bà
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Quang Hiếu**, thường được biết đến với nghệ danh **Hồ Quang Hiếu** (sinh ngày 20 tháng 9 năm 1983), là một nam ca sĩ và diễn viên người Việt Nam. Anh sở hữu khuôn
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Bùi Thị Bích Phương** (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1989), thường được biết đến với nghệ danh **Bích Phương**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Nổi danh từ mùa thứ ba của
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Núi Thạch Bích** (chữ Hán: 石 璧), tên Nôm gọi là **Đá Vách**, là một danh sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Núi cao khoảng 1.500 mét , nằm ở phía Đông Nam huyện
**Hoàng Bích Sơn** (20 tháng 1 năm 1924 – 13 tháng 3 năm 2000) là một nhà hoạt động Chính trị; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa VI
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
Sáng ngày 26/11, tại khách sạn Rex (số 141, đường Nguyễn Huệ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh), Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang tổ chức Hội nghị giới thiệu tiềm năng đầu
**Nguyễn Ngọc Tương** (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Phêrô Maria Nguyễn Ngọc Phi** (sinh 1967) là một linh mục của Giáo hội Công giáo Rôma, thuộc Giáo phận Đà Nẵng, Việt Nam. Ngoài các công việc mục vụ của linh mục, ông còn
**_Đất rừng phương Nam_** (tựa tiếng Anh: _Song of the South_) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại sử thi phiêu lưuchính kịch ra mắt vào năm 2023, được dựa trên
**Đặng Bích Hà** (4 tháng 4, 1928 - 17 tháng 9, 2024) là một nhà sử học người Việt Nam. Bà là phu nhân của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà được Nhà nước
thumb|Nguyễn Khắc Đạm **Nguyễn Khắc Đạm** (1918-2006) là một nhà nghiên cứu sử học người Việt Nam. Dù khởi đầu sự nghiệp với tư cách là nhà quân sự, nhưng ông được biết nhiều với
**Nguyễn Cửu Đàm** (阮久潭, ?-1777) là danh tướng và cũng là nhà doanh điền thời chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được lịch sử ghi nhận là _nhà quy hoạch Sài Gòn đầu