✨Nguyễn Tiến Lãng

Nguyễn Tiến Lãng

nhỏ|Ông Nguyễn Tiến Lãng Nguyễn Tiến Lãng (1909 - 1976) là nhà văn Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam, làm quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, sau năm 1952 định cư tại Pháp.

Quê quán, gia đình

Ông sinh ngày 9 tháng 9 năm 1909 tại huyện Văn Lãng, tỉnh Thái Nguyên (nguyên quán làng Hội Xá, phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông) trong một gia đình có truyền thống văn học.

Cha ông là Nguyễn Mạnh Hương làm quan nhà Nguyễn với chức tri huyện tại tỉnh Hà đông. Anh cả là Nguyễn Mạnh Bổng (bút hiệu Mân Châu). Các anh rể là thi sĩ Tản Đà, nhà văn Phan Khôi.

Các bút hiệu khác: Hán Thu, Thượng Uyển.

Học trường Bưởi, lycée Albert Sarraut rồi đại học Luật khoa Hà Nội. Ngay khi còn là học sinh trường Bưởi, Nguyễn Tiến Lãng đã nổi tiếng xuất sắc về văn chương, những bài luận văn của ông được thầy trao cho Toàn quyền Đông Dương Robin đọc. Robin cảm mến tài nghệ người học trò nghèo nên cố gắng giúp đỡ cấp học bổng vào lycée Albert Sarraut.

Hoạt động chính trị xã hội

1930, Nguyễn Tiến Lãng làm tùy viên báo chí tại tòa Khâm sứ Bắc kỳ, rồi phủ Toàn quyền Đông Dương, đồng thời dạy văn chương ở Hà Nội và viết báo trong miền Nam, ngoài Bắc và Paris, Pháp. Nguyễn Tiến Lãng đã từng cộng tác với học giả Nguyễn Văn Vĩnh trong tủ sách Âu Tây tư tưởng và anh rể Tản Đà trong An Nam tạp chí từ năm 1926 đến 1932,

Năm 1932 học giả Phạm Quỳnh khi vào Huế làm quan nhà Nguyễn đã trao lại tạp chí Nam Phong cho ông tiếp quản. Ông là chủ bút cuối cùng của Nam Phong tạp chí tồn tại cho đến năm 1934.

1934, ông làm bí thư cho Toàn quyền Đông Dương Robin.

Từ 1936, được vua Bảo Đại bổ nhiệm chức Giám đốc Kho Lưu trữ, Nghiên cứu, Dịch thuật và Báo chí tại hoàng cung, kiêm Bí thư của Nam Phương hoàng hậu.

Năm 1939, ông tháp tùng nhà vua và hoàng hậu công du nước Pháp, nhân dịp này ghi tên học Đại học Văn khoa và trường Cao đẳng Thực hành (École Pratique des Hautes Études) tại Paris.

1940, ông kết hôn với cô Phạm Thị Ngoạn, con gái Thượng thư Phạm Quỳnh (bà Phạm Thị Ngoạn sau này cũng là một nhà nghiên cứu, có những công trình nghiêm túc viết bằng tiếng Pháp về truyện Kiều, Phạm Quỳnh và Tạp chí Nam Phong).

Nguyễn Tiến Lãng tiếp tục ngành quan lộ, làm Phủ thừa ở Nha Trang, Huế và Hội An.

Năm 1945 ông được thăng Quản đạo Đà Lạt.

Giai đoạn kháng chiến chống Pháp

Tháng 8 năm 1945, ông về Huế nghỉ hè và thăm gia đình vợ, cùng lúc Cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Ngày 23 tháng 8 năm 1945 ông bị Việt Minh bắt cùng với cha vợ Phạm Quỳnh tại biệt thự Hoa Đường ở Huế. Cha vợ ông bị chết không lâu sau đó cùng với ông Ngô Đình Khôi cựu Tổng đốc Quảng Nam.

Ban đầu ông bị giam lỏng, làm những công việc tạp vụ. Sau gần sáu tháng thử thách,cuối cùng Nguyễn tiến Lãng được trả lại tự do. Không những thế, Khu trưởng kiêm Chính ủy Liên khu IV, tướng Nguyễn Sơn còn tiếp nhận Nguyễn tiến Lãng vào làm công tác giảng dạy ở trường Thiếu sinh quân Liên khu IV tại Thanh Hóa. Nguyễn tiến Lãng được mặc quân phục và mang giấy chứng minh Vệ quốc đoàn. Cảm phục ân nghĩa và sự tin dùng của tướng Nguyễn Sơn,ông đã cố gắng tất cả và tiếp tục giảng dạy môn Văn học ở trường Thiếu sinh quân. Phần lớn các em Thiếu sinh quân sau này đã trưởng thành trở thành cán bộ trung cao cấp trong quân đội và các cán bộ ưu tú ở các ngành của nhà nước.

Năm 1950 tướng Nguyễn Sơn trở về Trung Quốc, Nguyễn tiến Lãng cảm thấy bơ vơ, không còn người tin dùng và che chở. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ ông đành bỏ về Hà nội tạm chiếm. Sau này, nhớ lại những năm tháng kháng chiến gian khổ ở Liên khu bốn, ông thường tâm sự với bạn bè người thân: "Nếu tướng Nguyễn Sơn còn ở lại, tôi không đời nào phụ lòng ông mà bỏ về Hà Nội". Nguyễn Tiến Lãng vẫn dùng những lời lẽ tốt đẹp nhất để nhắc tới Tướng Nguyễn Sơn, vị tướng huyền thoại đã cưu mang ông trong những tháng ngày khó khăn nhất của cuộc đời"

1951 ông về Hà Nội.

Định cư tại Pháp

Đầu năm 1952 cùng gia đình sang Pháp sinh sống; trở lại làm bí thư cho Hoàng hậu Nam Phương ở Cannes từ 1952 đến 1956.

Sau đó ông dạy học, rồi làm công chức tại Bộ Quốc gia Giáo dục Pháp. Nguyễn Tiến Lãng chuyên về bác ngữ học (philologie) Việt Nam và lịch sử Việt Nam.

Ông mất tại Antony, ngoại ô Paris, năm 1976.

Tác phẩm

  • Pages françaises (Những đoản văn tiếng Pháp), nxb. Tân Dân thư quán, Hà Nội, 1929.

  • Indochine la douce (Đông Dương êm dịu), bút ký, nxb. Nam Ký, Hà Nội, 1936.

  • Mariage de la plume et du pinceau (Kết hợp bút văn và bút vẽ), tham luận văn học, nxb. Nha Học Chánh Đông Pháp, Direction de l' instruction publique, Hà Nội, 1936.

  • Les chansons annamites (Ca dao An Nam), nxb. Asie Nouvelles Illustrées, Hà Nội, 1937.

  • Pétrus Trương Vĩnh Ký, lettré et apôtre franco-annamite (Trương Vĩnh Ký, học giả và sứ đồ Pháp Việt), nxb. Bùi Huy Tín, Huế, 1937.

  • Dans les forêts et dans les rizières (Trong rừng ngoài ruộng), tập truyện ngắn, nxb. Hương Sơn, Hà Nội, 1939.

  • Tiếng ngày xanh, tập truyện ngắn, nxb. Hương sơn, Hà Nội, 1939, nxb. Rừng Trúc in lại có sửa chữa, Paris, 1979.

  • La France que j'ai vue (Nước Pháp dưới mắt tôi), nxb. Đắc Lập, Huế, 1940.

  • Les chemins de la révolte (Những nẻo dường nổi dậy), tiểu thuyết tự truyện, nxb. Amiot Dumont, Paris, 1953, Ý Việt, Paris, 1989.

  • La colline des abricotiers (Mai Lĩnh), truyện ngắn và cổ tích, nxb Rừng Trúc - Présence d'Asie, Paris, 1979...

Sách dịch:

  • Tình xưa, tác giả tự dịch truyện ngắn Eurydice của mình, nxb. Đông Tây - Dương Tự Quán, Hà nội, 1932.

  • Tây phương tình sử, dịch Les lais de Marie de France, Hà Nội, 1934.

  • Amour d' Annam, dịch thơ Hoa tiên sang tiếng Pháp, Nhà xuất bản Đắc Lập, Huế, 1939...

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Ông Nguyễn Tiến Lãng **Nguyễn Tiến Lãng** (1909 - 1976) là nhà văn Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam, làm quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, sau năm 1952 định cư tại Pháp. ##
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
**Đa Minh Nguyễn Văn Lãng** (sinh ngày 14 tháng 11 năm 1921 – mất ngày 22 tháng 2 năm 1988) là một Giám mục người Việt. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Con trông
**Nguyễn Văn Lang** (chữ Hán: 阮文郎, 1435 - 1513) là tướng lĩnh, đại thần cuối thời Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc đảo chính lật đổ vua Lê Uy Mục,
**Nguyễn Tiến Lâm** hay **Nguyễn Tấn Lâm** (阮進林, ?-1847), là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Tiến Lâm là người huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
**Tiên Lãng** là một huyện cũ thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Tiên Lãng nằm ở phía nam của thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 48 km,
**Nguyễn Tiến Tài** (1642-1697) là danh thần thời vua Lê chúa Trịnh, làm đến Lại bộ Thượng thư, nhập nội hành khiển, Nghĩa quận công. ## Xuất thân Nguyễn Tiến Tài sinh năm 1642 tại
**Lê Mộng Nguyên** (5 tháng 5 năm 1930 – 19 tháng 5 năm 2023) là tác giả ca khúc nổi tiếng Trăng mờ bên suối. Ông còn là giáo sư, tiến sĩ Luật và Khoa
**Antôn Nguyễn Tiến Đích** là một Chánh trương, tử vì đạo dưới triều vua Minh Mạng, được Giáo hội Công giáo Rôma phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1769 tại làng Chi
nhỏ|phải|Tháp Quan Thế Âm cao 40 m của [[Chùa Vĩnh Nghiêm (Thành phố Hồ Chí Minh)|chùa Vĩnh Nghiêm do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng thiết kế]] **Nguyễn Bá Lăng** (1920-14 tháng 6, 2005) là
**Nguyễn Tiến Lợi** (15 tháng 10 năm 1918 – 2008) là một nhà quay phim, đạo diễn tiên phong của nhiếp ảnh và điện ảnh cách mạng Việt Nam. Vốn là một nhà nhiếp ảnh,
Tết Việt Nam xưa được tuyển dịch kỹ lưỡng, mở đầu với bài nghiên cứu sâu sắc, như một tổng quan về Tết cổ truyền Việt Nam của học giả Nguyễn Văn Huyên. Tiếp đó,
**Antôn Nguyễn Tiến Dũng** (1924-2005) là một linh mục Công giáo người Việt. Ông được biết đến nhiều với vai trò là một nhạc sĩ, nhạc sư với bút danh **Tiến Dũng**. Ông nguyên là
**Nguyễn Tiến Liêu** (sinh năm 1938) quê tại Hà Tĩnh, sống tại Khánh Hòa, là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2022. ## Tiểu sử
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Làng Cót** hay **Kẻ Cót** là tên Nôm của hai làng Yên Quyết có từ lâu đời, là Thượng Yên Quyết (ở phía Bắc) và Hạ Yên Quyết (ở phía Nam), đều nằm bên bờ
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Nguyễn Huy Cẩn** hay **Nguyễn Huy Cận** (1729-1790) là chí sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Nguyễn Huy Cẩn người làng Sủi, tức Phú Thị, xã Phú Thị,
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh**, còn gọi là **Lăng Hồ Chủ tịch**, **Lăng Bác**, là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng
**Lăng Đồng Khánh** hay **Tư Lăng** (思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng hoàng đế Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du** là quần thể những di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đại thi hào và dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Các điểm di tích
**Nguyễn Hữu Tiến** (chữ Hán: 阮有進, 1602-1666), là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Nguyễn Hữu Tiến** sinh năm Nhâm Dần
**Nguyễn Nghiễm** (阮儼, 14 tháng 4 năm 1708 – 7 tháng 1 năm 1776) là quan chức, sử gia, nhà thơ thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công ổn
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
Năm Canh Tý (1840), hàng ngàn người dân bất mãn với chính sách cai trị của nhà Nguyễn đã tụ tập tại một số nơi trong tỉnh Hà Tiên (Việt Nam) làm thành nhiều cuộc
**Lăng Trường Cơ** (chữ Hán: 長基陵), tức lăng của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế - Nguyễn Hoàng, là vị chúa Nguyễn đầu tiên của 9 đời Chúa Nguyễn. Gia Long hoàng đế đã truy
**Nguyễn Hoằng Dụ** (阮弘裕, ? - 1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), Thanh Hóa, Việt Nam. ## Tiểu sử
Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An. **Nguyễn Huỳnh Đức** (chữ Hán: 阮黃德; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là
**Lăng Nguyễn Hữu Hào** là nơi chôn cất và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình - song thân của Nam Phương Hoàng Hậu - tọa lạc tại ngọn đồi ở phía
[[Tập tin:America 1000 BCE.png|thumb|right|Lược đồ thể hiện các cộng đồng người ở châu Mỹ vào năm 1000 trước Công nguyên. ]] **Thời kỳ tiền Colombo** () bao hàm tất cả các giai đoạn lịch sử
**Làng Thanh Lương** được hình thành vào khoảng từ cuối thế kỷ XIV và đến đầu thế kỷ XV. Đầu tiên Làng được đặt tên là làng Thanh Kệ, cho đến khi chúa Nguyễn về
**Làng Đông Thái** là một làng cổ thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, nổi tiếng về khoa bảng và danh nhân nhiều đời. Làng nằm dọc theo sông La từ bến
**Nguyễn Duy** (阮惟) hay **Nguyễn Văn Duy** (阮文惟), tự: **Nhữ Hiền** (1809–1861), là một danh tướng triều Nguyễn, (Việt Nam) hy sinh trong Trận Đại đồn Chí Hòa. Ông cũng chính là em của danh
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Phêrô Nguyễn Huy Mai** (1913–1990) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục tiên khởi của Giáo phận Ban Mê Thuột, cai
**Dương Trực Nguyên** (1468-1509) là danh thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là thành viên hội Tao đàn Nhị thập bát Tú. ## Sự nghiệp Dương Trực Nguyên người làng Thượng
nhỏ|Danh Sỹ Nguyễn Bá Trác **Nguyễn Bá Trác** (chữ Hán: 阮伯卓; 1881 – 1945), bút hiệu _Tiêu Đẩu_, là quan nhà Nguyễn, cộng sự của thực dân Pháp, nhà cách mạng, nhà báo và là
**Lang** (郎, Court Gentleman) là một thuật ngữ nguyên được dùng để chỉ các chức vụ thị vệ tại triều đình, nhưng sau này được dùng để chỉ các chức quan cao cấp trong các
**Bùi Tuấn** (1808-1872) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Năm sinh và gia thế Theo gia phả họ Bùi ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội do tổ tiên
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời