✨Lăng Nguyễn Hữu Hào

Lăng Nguyễn Hữu Hào

Lăng Nguyễn Hữu Hào là nơi chôn cất và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình - song thân của Nam Phương Hoàng Hậu - tọa lạc tại ngọn đồi ở phía Tây Nam thành phố Đà Lạt - lăng nằm trên đường Vạn Thành - Tà Nùng từ ngã ba Hoàng Văn Thụ cách thác Cam Ly 150m. Đây là một di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nằm trong số 150 danh lam thắng cảnh chưa được khai thác du lịch tại Đà Lạt.

Lịch sử

Ông Nguyễn Hữu Hào vốn là một đại điền chủ giàu có, quê quán tại Gò Công (nay thuộc phường Long Thạnh Mỹ, Thành phố Thủ Đức). Ông kết hôn với bà Lê Thị Bình, con gái ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong những người giàu có nhất Việt Nam thời bấy giờ.

Ông bà Nguyễn Hữu Hào có 2 người con gái: trưởng nữ là Agnès Nguyễn Hữu Hào, được gả cho một quý tộc người Pháp là Nam tước Pierre Didelol lúc đó đang giữ chức Khâm mạng Hoàng triều cương thổ (Hoàng triều Cương thổ là vùng đất biên cương do hoàng gia cai quản, gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng ngày nay). Cô em là Mariette Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan. Đẹp, con nhà trí thức, giàu có nên cô Nguyễn Hữu Thị Lan được các viên chức người Pháp chọn để tiếp cận Hoàng đế Bảo Đại. Vậy là họ sắp xếp để hai người gặp nhau trong một bữa tiệc do viên Đốc lý Đà Lạt tổ chức. Ngày 6 tháng 2 năm 1934, lễ cưới của Nguyễn Hữu Thị Lan và Hoàng đế Bảo Đại diễn ra tại Điện Kiến Trung (Hoàng thành Huế) và tấn phong làm Nam Phương Hoàng hậu.

Những ngày cuối đời, vợ chồng ông Nguyễn Hữu Hào chỉ sống ở Đà Lạt. Khi bắt đầu lâm bệnh nặng và biết sẽ khó qua khỏi, ông có nguyện vọng sau khi qua đời sẽ được chôn cất tại Đà Lạt.

Mùa thu năm Kỷ Mão (13 tháng 9 năm 1939), Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào từ trần và được an táng theo nghi thức tước Quận công. Nam Phương hoàng hậu cho xây dựng lăng mộ cho ông vào cuối năm 1939. Sau 4 năm xây dựng, lễ quy lăng diễn ra ngày 10 tháng 9 năm 1941.

Miêu tả

Lăng xây dựng trên một đồi cao. Cổng lăng là trụ biểu gồm 4 trụ thẳng đứng trang trí hoa sen và chó ngao và đề tự 2 cặp câu đối do chính Nam Phương Hoàng Hậu đề tự . Nội dung hai cặp câu đối như sau:

Tạm dịch:

Đường lên lăng gọi là nhất chính đạo (con đường duy nhất lên lăng) gồm 36 bậc, cứ cách 9 -13 bậc sẽ có một chiếu nghỉ tổng cộng 158 bậc thang. Nhất chánh đạo là con đường duy nhất lên lăng. Lăng xây trên đỉnh đồi hình Hoa sen đang nở, mái lợp ngói lưu ly xanh với các đầu đao cong lên như các Kiến trúc Á Đông nhưng trên nóc lăng có Thánh giá. Mặt tiền lăng là một sân tế rộng dựng một bia đá, đầu bia hình vòng cung chạm trổ hoa lá. Trong lăng có 2 ngôi mộ lớn bằng đá xanh, cao khoảng 30 cm, hình chữ nhật mặt phẳng. Trên mặt mộ, có chạm trổ hoa văn quanh riềm và hình một thánh giá lớn giữa mộ. Đó là mộ Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào và phu nhân Lê Thị Bình. Ở giữa hai ngôi mộ có một hương án (còn là bàn để các linh mục hành lễ). Phía sau bàn thờ này có trổ một cửa vuông rộng nhìn ra một nhà bia nhỏ, bia bằng đá xanh, chạm trổ trên đầu và chung quanh bài minh bia hình chữ nhật.

Nội dung bài minh bia:

Hiện nay

Với kiến trúc độc đáo, hài hòa và tọa lạc trên một đồi thông, khu di tích Lăng Nguyễn Hữu Hào nằm trong tổng thể quy hoạch của khu du lịch Thác Cam Ly và đã được Sở Du lịch - Thương mại Lâm Đồng xếp vào danh sách 150 khu, điểm có tiềm năng khai thác du lịch.

Hiện nay, khu lăng mộ đang bị lãng quên. Xung quanh nơi này cây cỏ, bụi rậm mọc lên khắp nơi, trở nên hoang vu. Một số bậc thềm trong khu vực bia mộ đã bị nứt vỡ, hư hại do tác động bên ngoài.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lăng Nguyễn Hữu Hào** là nơi chôn cất và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình - song thân của Nam Phương Hoàng Hậu - tọa lạc tại ngọn đồi ở phía
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Hữu Dật** (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều
nhỏ|Giáo sư Nguyễn Thúc Hào **Nguyễn Thúc Hào** (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là một giáo sư người Việt Nam. Ông đã từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Nguyễn Hữu Lập**, tự **Nọa Phu**, hiệu **Thiếu Tô Lâm tiên sinh**, quê ở làng Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Ông sinh ra trong một gia đình có truyền
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Hữu Liêu** (阮有僚, 1532-1597) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người làng Tây Đam, nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng** xảy ra vào ngày 16 tháng 9 năm 1866 do Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, có thể gọi là _cuộc đảo chính lần thứ ba_ dưới triều vua Tự
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
Đình Đông Phù, Thanh Trì là nơi thờ sứ quân Nguyễn Siêu **Nguyễn Siêu** (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu _Nguyễn Hữu Công_ (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ
**Nguyễn Lân** (14 tháng 6 năm 1906 – 7 tháng 8 năm 2003) là một giáo viên, người biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có
**Trần Văn Hữu** (1896 – 1984) là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Quốc gia Việt Nam từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1952. ## Tiểu sử ###
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
Đình Mỹ Phước **Đình làng Nam Bộ** (người miền Nam hay gọi tắt là **đình thần**) là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn. Nhìn chung ở Nam
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Nguyễn Quang Hải** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Sĩ Cố** (chữ Hán: 阮士固, 1230 - 1312) là nhà thơ và là quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Theo sách _Địa chí Hải Dương_, **Nguyễn Sĩ Cố** sinh
Trường ĐH Nguyễn Tất Thành là “trường đại học đổi mới sáng tạo” đáp ứng nhu cầu giáo dục đại học đại chúng thông qua việc tạo lập một môi trường học tập tích cực
**Nguyễn Đức Xuyên** (阮德川) (1759 – 1824) là một võ quan đại thần dưới triều Nguyễn. Ông tham gia cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại triều Tây Sơn rồi làm quan dưới thời
**_Cô Thắm về làng_** là một bộ phim truyền hình, ca nhạc được thực hiện bởi DID TV (nay là Vie Channel) do Nguyễn Hoàng Anh làm biên kịch, đạo diễn. Phần Một của phim
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Nguyễn Cảnh Toàn** (28 tháng 9 năm 1926 – 8 tháng 2 năm 2017) là một Giáo sư Toán học Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư
**Nguyễn Phúc Ưng Lang** (1919 – 17 tháng 8 năm 2009) là một nhạc sĩ, nghệ sĩ ghita Hawaii, giáo sư âm nhạc Việt Nam. Ông nổi tiếng với ca khúc _Mưa rơi_, một sáng
**Nguyễn Phi Khanh** (chữ Hán: 阮飛卿; tên thật là **Nguyễn Ứng Long** (阮應龍); năm sinh không chắc chắn. Một số nguồn cho là khoảng năm 1355. ## Thân thế Sử sách có chép rằng quan
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
**Đoàn Hữu Trưng** (段有徵; 1844 - 1866) hay **Đoàn Trưng** (段徵), tên trong gia phả là **Đoàn Thái**, tự **Tử Hòa**, hiệu **Trước Lâm**; là thủ lĩnh cuộc nổi dậy ngày 16 tháng 9 năm
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Đặng Đại Độ** (1728-1765) là vị danh thần dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam, thuộc dòng dõi Quốc công Đặng Tất. ## Tiểu sử Đặng Đại Độ sinh ra trong
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở