✨Các cuộc nổi dậy ở Hà Tiên (1840)

Các cuộc nổi dậy ở Hà Tiên (1840)

Năm Canh Tý (1840), hàng ngàn người dân bất mãn với chính sách cai trị của nhà Nguyễn đã tụ tập tại một số nơi trong tỉnh Hà Tiên (Việt Nam) làm thành nhiều cuộc nổi dậy lớn nhỏ, diễn ra dai dẳng, gây tổn thất nặng nề cả hai phía.

Theo sử liệu, thì mãi cho đến tháng 2 năm Đinh Mùi (1847), sau khi Nặc Ông Đôn làm vua Chân Lạp, quan quân Việt ở Trấn Tây thành (tức Phnom Penh ngày nay) rút hết về An Giang, thì chiến sự ở Nam Bộ (trong đó có tỉnh Hà Tiên) mới được yên.

Bất ổn ở Hà Tiên

Đời vua Thiệu Trị, trong nhiều cuộc nổi dậy đã xảy ra tại Hà Tiên, đáng kể nhất là cuộc nổi dậy ở hai huyện là Hà Âm và Hà Dương, thuộc phủ Tịnh Biên (Tĩnh Biên), tỉnh Hà Tiên. Từ những căn cứ trong hai huyện này, quân nổi dậy tiến về phía Nam đánh phá nhiều nơi trong huyện Hà Châu (nay là thị xã Hà Tiên), uy hiếp tỉnh thành Hà Tiên rồi lan rộng sang cả huyện Kiên Giang, lập căn cứ ở vùng phụ cận thành phố Rạch Giá và thị trấn Rạch Sỏi hiện nay.

Cũng theo sử liệu, thì vào cuối đời vua Minh Mạng, vùng đất này đã có loạn lạc. Nhà văn Sơn Nam, kể: :''Vùng biên giới này bắt đầu xáo trộn vào năm 1838, khi tên Gi (làm chức An phủ cấu kết với người Xiêm. Năm sau, viên Quản cơ người Miên (Khmer) ở An Giang là Hàn Biện cùng đồng bọn làm phản rồi bỏ đi...

GS. Nguyễn Phan Quang, cho biết thêm: :Ngay từ đầu năm 1838, ở Hà Tiên đã nổ ra cuộc nổi dậy do Đô Y làm thủ lĩnh, lôi kéo được các Quản cơ là Sô Mịch và An Tôn đi theo. Đô Y phối hợp với lực lượng của thủ lĩnh Di (giữ chức An Phủ ở phủ Khai Biên) được lính trong đồn hưởng ứng. Án sát Hà Tiên Phạm Ngọc Quang và Lãnh binh Nguyễn Tiến Phúc đem lực lượng đến đàn áp nhưng không kết quả. Sau, quân nổi dậy đánh chiếm thành Hải Đồng (?), binh lính trong đồn Cần Đa mang khí giới đi theo, triều đình cử tướng Trương Minh Giảng trực tiếp mang quân đến đánh, nghĩa quân mới tạm tan.

Nguyên nhân

Đến khi vua Thiệu Trị vừa lên nối ngôi, các quan quân nhà Nguyễn làm nhiệm vụ bảo hộ bên Trấn Tây thành đang bị người bản xứ chống đối mãnh mẽ (vì áp bức và quan liêu), và trong nước thì loạn lạc xảy ra ở nhiều nơi; một số cư dân ở vùng Hà Âm-Hà Dương và vùng núi Thất Sơn, mà phần lớn thuộc tộc người Khmer, đã dựa vào sự hỗ trợ của quân Xiêm và quân Chân Lạp mà rầm rộ nổi dậy.

Đề cập đến nhiều cuộc nổi dậy ở Nam Bộ lúc bấy giờ (trong số đó có những cuộc nổi dậy ở Hà Tiên), nhà văn Sơn Nam đã chỉ ra một số nguyên nhân sau: :''Vua Minh Mạng mất, để lại gánh nặng ở phía biên giới Việt-Miên. Loạn lạc đã phát khởi ngay từ khi cuộc chinh phạt của tướng Trương Minh Giảng đang diễn ra tại phía Biển Hồ, tuy rằng về hình thức là dẹp xong nhưng mầm mống còn đó. Người Miên cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam dường như sẵn sàng hưởng ứng, chống đối quan lại địa phương khi ở Cao Miên phong trào lên cao. Quân Xiêm lại khéo phao tin tuyên truyền. Người Cao Miên lúc bấy giờ ở Nam Kỳ lại bực dọc với chính sách "nhứt thị đồng nhơn" của vua Minh Mạng, bắt buộc họ phải lấy tên, lấy họ như người Việt để đồng hóa. Lại còn chủ trương cải cách tổ chức nông thôn cổ truyền của sóc Miên khiến họ mất quyền tự trị..

Hà Âm nổi dậy

nhỏ|phải|Vùng biên giới Hà Âm nhỏ|phải|Bản đồ vùng Hà Âm (kênh Vĩnh Tế, núi Thâm Đăng, Chân Sum)-Kiri Vong (biên giới Việt Nam-Campuchia) năm 1901. Sau khi nhận được tin số người trên tự trang bị giáo mác, gậy gộc tụ về vùng núi Tà Liệt (thuộc huyện Hà Âm. Đại Nam thực lục chép là Liệt Điệt) nổi lên chống đối, vua Thiệu Trị liền lệnh cho Tổng đốc Long-Tường (có nguồn ghi là An-Hà) Dương Văn Phong và Thự tuần phủ Lê Quang Huyên tập trung quân lực lượng đi đánh dẹp.

Dù đông đến số ngàn, nhưng vì vũ khí hãy còn thô sơ nên quân nổi dậy tạm thời rút lui khỏi núi Tà Liệt. Kể lại lần đi tiễu trừ này, sách Đại Nam thực lục chép: :(Quân triều) đi đến đâu đốt các nhà cửa và các thứ tích trữ cháy gần hết sạch....

Rời khỏi căn cứ, quân nổi dậy chia làm hai cánh. Một cánh vượt qua kênh Vĩnh Tế, vào đóng quân trong thành Cổ Man. Một cánh khác đến chiếm đóng ở vùng núi Chân Chiêm (hay Chân Sum 真森山, Treang hay Chang) và Thâm Đăng (hay Thâm Đưng (深簦山, Phnom Ba-yang)

Kiểm điểm lại lực lượng, Tổng đốc Dương Văn Phong không dám cho quân vây đánh thành Cổ Man, mà chỉ cho quân đến càn quét vùng núi Chân Chiêm và Thâm Đăng, đuổi quân nổi dậy chạy về phía Châu Đốc.

Mặc dù bỏ chạy, nhưng chỉ một vài tháng, quân nổi dậy từ các căn cứ trên kéo xuống phía Nam huyện Hà Châu, vây đồn Châu Nham (hay Chu Nham, rồi đến chiếm các cao điểm trên núi Tô Châu và núi Lộc Trĩ ở sát biển Hà Tiên.

Viên Phó quản cơ coi đồn Châu Nham là Dương Văn Thuận, vừa lẻn ra khỏi đồn để xin quân cứu viện, bị quân nổi dậy phát hiện đuổi theo đâm chết.

Vài hôm sau, Tổng đốc Dương Văn Phong mới hay liền sai Lãnh binh Hà Văn Củ mang 600 biền binh hiệp cùng quân của Thự tuần phủ Lê Quang Huyên cùng đi đánh giải vây. Gần đến nơi, hai ông cho quân vào trú ở đồn Chiêm Khê (thuộc thôn Thuận An, gần tỉnh lỵ Hà Tiên), rồi chia lực lượng ra làm nhiều mũi đi đánh đuổi. Trước sức mạnh của quân triều, quân nổi dậy rời khỏi đồn Châu Nham, núi Tô Châu và Lộc Trĩ. Đổi lại, Phó vệ úy Định Tường Nguyễn Văn Điệp, Cai đội thủy vệ An Giang Ngô Thiên Tường cùng hơn 70 biền binh đều chết tại trận, còn Lãnh Binh Củ thì bị trọng thương.

Hưởng ứng

Vào lúc quân nổi dậy đang đối đầu với quân triều ở những nơi trên, tháng 9 Canh Tý (1840), một thổ mục tên là Y La Việt Tốt ở huyện Hà Âm lại đứng lên hưởng ứng, Lãnh binh Nguyễn Đức Huấn phải mang 700 quân mới trấn áp được.

Đồng thời, ở huyện Kiên Giang, một Suất đội tên là Chân Triết, tập hợp được rất nhiều người bất mãn, đánh thẳng vào huyện lỵ, khiến viên Tri huyện phải bỏ chạy. Sau đó, Chân Triết cho quân đắp đồn lũy ở bờ sông Kiên Giang và đóng cọc ở lòng sông này, ngăn quân triều từ Xà Tón (Tri Tôn) qua cứu viện. Trong hàng ngũ đội quân này có đông đảo người Khmer, một số người Kinh và người Hoa.

Cũng khoảng thời gian này, một cánh quân nổi dậy khác do Suy và Sốc (cả hai đều không biết tên đầy đủ, trước được nhà Nguyễn cho làm chức An Phủ) làm thủ lĩnh, từ các căn cứ ở các vùng Láng Tượng, Cây Trâm và Cù Là đi quấy phá chợ Rạch Giá

Lược kể lại những cuộc nổi dậy lớn nhỏ ở vùng này, nhà văn Sơn Nam viết: :''...Năm 1840, tình hình thêm bi đát: Người Miên ở Tịnh Biên (An Giang) nổi dậy khiến quan Tri phủ bỏ trốn, loạn quân kéo về phía biên giới Hà Tiên đánh đồn Châu Nham (Đá Dựng), quan binh nhiều kẻ bị hại. Tháng 10 năm ấy, quân nổi dậy gồm 2.000 người kéo qua tận Kiên Giang, phá chợ Rạch Giá...(Ngoài ra) vùng Xà Tón (Tri Tôn, An Giang) cũng bị khuấy động...

Là một vị tướng dày dạn kinh nghiệm, Phạm Văn Điển không cho quân đánh vào một điểm, mà chia ra đánh vào nhiều điểm, nhằm chia sức đối phó của đối phương. Cách thức này rất có hiệu quả, quân nổi dậy liên tiếp thua to.

Thiệt hại nặng, quân nổi dậy không còn đủ sức tấn công mà chỉ có thể đi quấy phá một vài nơi, làm quân triều rất vất vả vì cứ phải đi truy quét mãi. Đến năm 1843, ở vùng biên giới này đã tạm lắng yên (quân Xiêm bị đánh đuổi, các cuộc nổi dậy bị tan rã gần hết) các quan sở tại bèn cho thành lập ấp, khuyến khích người dân địa phương trở lại canh tác bình thường, nhưng kết quả không mấy khả quan, vì quân Xiêm cứ cho người đến xúi giục.

Theo GS. Nguyễn Phan Quang, thì đến giữa năm 1846, sử triều Nguyễn vẫn còn chép: Bọn giặc hợp bè lũ quấy rối ở hai đồn là Giang Thành và Chiết Hạm.

Và như đã trích dẫn ở bên trên, mãi cho đến tháng 2 năm Đinh Mùi (1847), khi Nặc Ông Đôn làm vua Chân Lạp, quan quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây thành rút hết về An Giang, thì chiến sự ở phía Nam mới được yên.

Tài liệu liên quan

*Trong một bản tâu về triều (1840), Tuần phủ An Giang lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ đã nhận xét hoạt động của quân nổi dậy ở vùng đất Nam Bộ như sau: :''Tình trạng bọn thổ phỉ ở miền Nam so với sự thể tên Nông Văn Vân ở Bắc có khó khăn hơn. Tên Vân chỉ có châu Bảo Lạc...còn ở đây, bọn thổ phỉ chỗ nào cũng có...Từ tỉnh An Giang đến tỉnh Hà Tiên, quân giặc đóng đồn, quân ta vận tải lương thực và chuyển công văn bọn thổ phỉ thường chặn bắn...

*GS. Trần Văn Giàu, viết: :Theo sự mô tả trong chính sử nhà Nguyễn kết hợp với những câu chuyện còn lưu truyền trong dân gian địa phương, thì cuộc tàn sát của quan quân triều Nguyễn ở Hà Âm-Hà Dương có thể sánh với cuộc tàn sát quân nổi dậy, sau khi thành Phiên An bị đánh hạ hơn mười năm trước. "Khác chăng là ở Phiên An, một đồng rộng trở thành đồng mả ngụy, còn ở Hà Âm thì thây chất thành đồi, máu chảy thành suối.

*Sau vụ án Láng Thé ở Trà Vang (nay là Trà Vinh) năm 1848, Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) bị đày làm lính ở đồn Vĩnh Thông (làng Vĩnh Thông thuộc tổng Châu Phú (Châu Đốc) huyện Tây Xuyên khoảng 1836-1839, năm 1839 cắt sang huyện Hà Âm. Vị trí làng này ngày nay thuộc xã An Nông huyện Tịnh Biên tại phía bắc kênh Vĩnh Tế trên biên giới với xã Saom (tức Sóc Sum) huyện Kiri Vong tỉnh Takéo Campuchia). Khi đi qua Hà Âm, nhìn thấy cảnh tiêu điều do cuộc chiến đã gây ra, ông cảm xúc làm bài thơ sau: :Kinh qua Hà Âm :(Qua Hà Âm cảm tác)

:''Mịt mịt mây đen kéo tối sầm, :''Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm. :''Đống xương vô định sương phau trắng, :''Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm. :''Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy, :''Đèn trời leo lét dặm u lâm. :''Nghĩ thương con tạo sao dời đổi, :Dắng dỏi đêm trường tiếng dế ngâm.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Năm Canh Tý (1840), hàng ngàn người dân bất mãn với chính sách cai trị của nhà Nguyễn đã tụ tập tại một số nơi trong tỉnh Hà Tiên (Việt Nam) làm thành nhiều cuộc
**Cuộc nổi dậy ở Thất Sơn (1841)** là một cuộc khởi binh (không rõ ai là thủ lĩnh) chống lại nhà Nguyễn thời vua Thiệu Trị, xảy ra trên địa bàn vùng Thất Sơn (nay
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**Đông Ấn Hà Lan** (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan với lãnh thổ chủ yếu bao gồm lãnh thổ của nhà nước hiện đại Indonesia. Đông Ấn Hà Lan được thành
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
:''Bài này viết về bang Schleswig-Holstein của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Xem các nghĩa khác tại Schleswig-Holstein (định hướng) Cổng [[Holstentor ở Lübeck là một biểu tượng của Schleswig-Holstein và là một trong
**Dãy Cascade** (tiếng Anh: **' hay **' (ở Canada)) là một dãy núi kéo dài nằm đối diện với bờ biển thuộc khu vực phía tây của Bắc Mỹ, giữa tiểu bang California, Oregon, Washington
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Niệp quân** () là những lực lượng vũ trang nông dân hoạt động tại các khu vực giáp ranh của 8 tỉnh An Huy - Hà Nam - Sơn Đông - Giang Tô - Hồ
nhỏ|Quyền bầu cử của phụ nữ trên thế giới vào năm 1908 nhỏ| Cuộc diễu hành Phổ thông đầu phiếu, [[thành phố New York, ngày 6 tháng 5 năm 1912 ]] Phổ thông đầu phiếu
(hay còn gọi là **Ke-Go Kiểu 97**) là kiểu xe tăng hạng nhẹ được Lục quân Đế quốc Nhật Bản thiết kế và sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và
**Cuộc cách mạng Philippines** (tiếng Filipino: Himagsikang Pilipino), hay còn được gọi là **Chiến tranh Tagalog** (tiếng Tây Ban Nha: _Guerra Tagalog_) bởi người Tây Ban Nha, là một cuộc cách mạng và các cuộc
**Nguyễn Công Trứ** (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự **Tồn Chất**, hiệu **Ngộ Trai**, biệt hiệu **Hi Văn**, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**William Wilberforce** (24 tháng 8 năm 1759 – 29 tháng 7 năm 1833), là một chính khách, nhà hoạt động từ thiện người Anh, người lãnh đạo phong trào bãi bỏ chế độ nô lệ.
**Đế quốc Brasil** là một nhà nước tồn tại vào thế kỷ 19, có chủ quyền đối với các lãnh thổ tạo thành Brasil và Uruguay (cho đến năm 1828). Đế quốc Brasil là một
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
**Thanh Cao Tông** (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng Đế** (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh
Không rõ về những cư dân đầu tiên đã định cư tại **Đài Loan**, nối tiếp họ là những người Nam Đảo (Austronesia). Hòn đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa vào thế kỷ
nhỏ|300x300px| Sự phát triển của phân vùng hành chính Brasil **Lịch sử của Brasil** bắt đầu với người bản địa ở Brasil. Người châu Âu đến Brasil vào đầu thế kỷ XVI. Người châu Âu
**Tỉnh Zaporizhzhia** (, hay ), là một tỉnh (oblast) tại miền nam Ukraina. Tỉnh có diện tích là , và dân số là . Tỉnh được hình thành vào năm 1939 khi tách từ tỉnh
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Brasil**, quốc hiệu là **Cộng hòa Liên bang Brasil**, là quốc gia lớn nhất Nam Mỹ. Brasil là quốc gia lớn thứ năm trên thế giới về diện tích và lớn thứ bảy về dân
**Lịch sử Canada** bắt đầu khi người Da đỏ cổ đại đến vào hàng nghìn năm trước. Các nhóm dân nguyên trú sinh sống tại Canada trong hàng thiên niên kỷ, với những mạng lưới
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Hà Tông Quyền** hay **Hà Tôn Quyền** (chữ Hán: 何宗權, 1798 -1839), sau phải đổi là **Hà Quyền** do kiêng tên húy của Vua Thiệu Trị (Nguyễn Phước Miên Tông), tự là **Tốn Phủ**, hiệu
**Abraham Lincoln** (; 12 tháng 2 năm 1809 – 15 tháng 4 năm 1865) là một chính khách và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ năm 1861 cho đến
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
nhỏ|Quyền bầu cử của phụ nữ nhỏ|Poster của Phong trào Phụ nữ Đức, 1914. phải|nhỏ|Phụ nữ ở Anh biểu tình đòi quyền bầu cử năm 1911. nhỏ|Phụ nữ Mỹ đấu tranh cho quyền bầu cử
**Ninurta**, còn được gọi là **Ninĝirsu**, là một vị thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với nông nghiệp, chữa bệnh, săn bắn, luật pháp, kinh sư và chiến tranh, được bắt đầu thờ phụng
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
**Đài Loan dưới sự cai trị của nhà Thanh** đề cập đến sự cai trị của nhà Thanh đối với Formosa (khu vực ven biển của Đài Loan ngày nay) từ năm 1683 đến năm
Ziggurat **Lưỡng Hà** (_Mesopotamia_) là một bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thuộc Tây Á, ngày nay là miền nam của Iraq. ## Giai đoạn 4000 năm trước Công nguyên Các
**Thiệu Trị** (chữ Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là **Nguyễn Phúc Dung** (阮福曧), sau cải thành **Nguyễn Phúc Miên Tông** (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ
**Lê Văn Đức** (chữ Hán: 黎文德; 1793 – 1842), là danh tướng trải hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Ông là người ở huyện An Bảo
**Bảo tàng Victoria và Albert** (thường viết tắt là **V&A**) ở Luân Đôn là bảo tàng nghệ thuật trang trí và ứng dụng cũng như nghệ thuật điêu khắc lớn nhất thế giới, bảo tàng
**_Người Sói_** (tựa gốc: **_X-Men Origins: Wolverine_**) là một phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2009 dựa trên nhân vật Wolverine của Marvel Comics. Phim được phát hành ngày 28 tháng 4
Ngày **13 tháng 12** là ngày thứ 347 (348 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 18 ngày trong năm. ## Sự kiện *552 – Sau khi tiêu diệt cuộc nổi loạn của Hầu Cảnh,
**Willem III** (tiếng Hà Lan: _Willem Alexander Paul Frederik Lodewijk_, tiếng Anh: _William Alexander Paul Frederick Louis_; 19 tháng 2 năm 1817 - 23 tháng 11 năm 1890) là Vua của Hà Lan và Đại
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến