Khởi nghĩa Tôn Ân (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân, chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa diễn ra từ tháng 10 năm Long An thứ 3 (399) đến tháng 3 năm Nguyên Hưng đầu tiên (402).
Bối cảnh
Cuối đời Đông Tấn, sĩ tộc hào môn dựa vào những đặc quyền đặc lợi, trở nên tham lam, thối nát trong sinh hoạt, không ngừng tăng cường áp bức và bóc lột nhân dân. Sau trận Phì Thủy, nguy cơ ngoại xâm được tiêu trừ, hài lòng với cục diện tạm an trước mắt, Tấn Hiếu Vũ đế để mặc cho cha con Hội Kê vương Tư Mã Đạo Tử chuyên quyền, dẫn đến triều đình chia bè kết đảng, chính trị hủ bại, không ngừng diễn ra các cuộc đấu tranh đẫm máu.
Khu vực Chiết Đông phải chịu đựng thuế khóa hà khắc, lao dịch nặng nề, giáo chủ Thiên Sư đạo là Tôn Thái lợi dụng việc truyền đạo để tụ tập dân chúng, muốn mượn cớ thảo phạt Vương Cung để khởi binh, thì bị Tư Mã Đạo Tử dụ đến giết đi. Cháu của Thái là Tôn Ân trốn ra hải đảo Ông Châu , tụ tập được vài trăm người, chờ cơ hội báo thù.
Cả nhà Tôn Ân đã mấy đời tín ngưỡng Thiên Sư đạo. Đạo này ban đầu gọi là Ngũ Đấu Mễ đạo, do Trương Lăng sáng lập vào thời Hán Thuận đế, ai muốn theo đạo phải nộp 5 đấu gạo. Cuối đời Đông Tấn, nhân dân 1 dải Chiết Đông bị áp bức và bóc lột đến nỗi nghèo khốn không chịu được, người theo đạo ngày càng nhiều.
Diễn biến
Tháng 10 năm Long An thứ 3 (399), triều đình Đông Tấn dưới sự chuyên quyền của cha con Hội Kê vương Đạo Tử và Nguyên Hiển, tăng cường bắt "nhạc thuộc" phải sung binh dịch. Trước đó, triều đình lệnh cho các quận Chiết Đông bãi miễn nô tì, đổi họ làm điền khách rồi tiến hành bắt lính, đặt hiệu là "nhạc thuộc". Tôn Ân thừa cơ lòng dân Chiết Đông xao động, lên bờ đánh chiếm Phiên Ngu , tập kích Hội Kê . Tháng 11, nghĩa quân bắt giết Hội Kê nội sử Vương Ngưng Chi (con thứ của Vương Hi Chi), Tôn Ân tự xưng Chinh đông tướng quân, đặt ra quan chức, gọi quân đội của mình là "Trường Sinh nhân", dâng biểu xin giết cha con Đạo Tử.
Nghĩa quân đánh mạnh vào giới sĩ tộc, bất kể xuất thân nam bắc của họ. Ngô Hưng thái thú Tạ Mạc, Vĩnh Gia thái thú Tư Mã Dật, Gia Hưng công Cố Dật, Nam Khang công Tạ Minh Huệ, Hoàng môn thị lang Tạ Xung, Trương Côn, Trung thư lang Khổng Đạo, Thái tử tẩy mã Khổng Phúc, Ô Trình hầu Hạ Hầu Âm,… bị sát hại, điền khách và nô tì của họ lũ lượt đi theo nghĩa quân. Nhất thời nhân dân 8 quận Hội Kê, Ngô Quận, Ngô Hưng, Nghĩa Hưng, Lâm Hải, Vĩnh Gia, Đông Dương, Tân An nối nhau hưởng ứng, trong vòng 1 tuần, nghĩa quân phát triển lên đến vài chục vạn người.
Nhà Tấn phái Vệ tướng quân Tạ Diễm, Phụ quốc tướng quân Lưu Lao Chi soái lĩnh Bắc Phủ binh đi đánh dẹp. Tháng 12, Tạ Diễm hạ được Nghĩa Hưng, giết chết đầu lĩnh nghĩa quân Hứa Doãn Chi, tiến binh đến Ngô Hưng, đóng quân ở Ô Trình . Tạ Diễm hội họp với Lưu Lao Chi, cùng tiến về sông Tiền Đường. Tôn Ân thấy quân Tấn vượt sông Tiền Đường, bèn đưa 20 vạn nam nữ chạy ra hải đảo.
Tháng 5 năm Long An thứ 4 (400), Tôn Ân từ Tiếp khẩu , đánh chiếm Dư Diêu , Thượng Ngu. Tạ Diễm phái tham quân Lưu Tuyên Chi chống cự, Tôn Ân lui quân. Mấy ngày sau, Tôn Ân đặt phục binh ở Hình Phổ, giết chết Tạ Diễm và hai con trai. Triều đình nhà Tấn chấn động, sai Quan quân tướng quân Hoàn Bất Tài, Phụ quốc tướng quân Tôn Vô Chung, Ninh sóc tướng quân Cao Nhã Chi lĩnh binh trấn áp. Nghĩa quân chuyển sang đánh Lâm Hải, Hội Kê. Tháng 11, Cao Nhã Chi đại bại ở Dư Diêu, chạy về Sơn Âm. Triều đình mệnh cho Lưu Lao Chi làm đô đốc 5 quận Chiết Đông, đánh trả nghĩa quân. Tôn Ân vì tránh mũi nhọn của ông ta, lại một lần nữa chạy ra biển. Triều đình sai Lưu Lao Chi đóng quân ở Hội Kê, Ngô Quốc nội sử Viên Sơn Tùng dựng lũy Hỗ Độc , men biển đề phòng Tôn Ân nghiêm ngặt, khiến cho việc cấp dưỡng của nghĩa quân gặp khó khăn, người chết đến một nửa.
Tháng 2 năm Long An thứ 5 (401), Tôn Ân đưa thủy quân quay lại tập kích Cú Chương không thành công, Lưu Lao Chi đến đánh, Tôn Ân lại quay về hải đảo.
Tháng 3, Tôn Ân tiến đến Hải Diêm, bị bộ tướng của Lưu Lao Chi là Lưu Dụ đánh bại. Tháng 5, nghĩa quân chuyển đánh chiếm lũy Hỗ Độc, giết chết Viên Sơn Tùng, thừa thắng men theo Trường Giang tây tiến. Tháng 6, nghĩa quân đến Kinh Khẩu , áp sát Kiến Khang . Nhà Tấn vội điều động quan quân ở các quận Giang Bắc và Bắc phủ binh ở Chiết Đông quay về bảo vệ kinh sư. Nghe tin Tiếu vương Tư Mã Thượng Chi đã trở về, còn Lưu Lao Chi đã đến Tân Châu (cù lao Tân) , Tôn Ân e sợ nên tạm bỏ kế hoạch đánh chiếm Kiến Khang, một mặt phái binh tập kích trọng trấn Quảng Lăng của Giang Bắc, một mặt tự mình soái quân chủ lực theo đường biển lên phía bắc, đánh chiếm Úc Châu (cù lao Úc) , bắt sống Cao Nhã Chi. Tháng 8, Lưu Dụ và Lưu Kính Tuyên đưa quân đến đánh Úc Châu, Tôn Ân đại bại, tổn thất nặng nề. Lưu Dụ lần lượt đuổi đến Hỗ Độc, Hải Diêm, Tôn Ân bị bức phải men theo duyên hải phía nam lui quân, lần thứ 4 trở ra hải đảo.
Tháng 3 năm Nguyên Hưng đầu tiên (402), nghĩa quân tiến đánh Lâm Hải, bị thái thú Tân Bỉnh đánh cho đại bại, Tôn Ân mất hết lòng tin, nhảy xuống biển tự sát, người nhà và bộ hạ nhảy theo đến vài trăm người. Mấy ngàn nghĩa quân còn lại đề cử em rể của ông là Lư Tuần lên làm thủ lĩnh, tiếp tục đấu tranh.
Ảnh hưởng và đánh giá
Tôn Ân lãnh đạo nhân dân Chiết Đông nổi dậy đánh phá khắp các vùng duyên hải đông nam, đả kích nặng nề tập đoàn thống trị Đông Tấn đã thối nát, đẩy họ tiến những bước dài đến bờ vực diệt vong. Sau cái chết của Tạ Diễm, Bắc phủ binh dần dần rơi vào tay những người xuất thân bình dân áo vải (Lưu Lao Chi, Lưu Dụ), triều đình Đông Tấn chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, giai cấp sĩ tộc không còn giữ được quân quyền và chính quyền một cách toàn vẹn nữa.
Tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng khởi nghĩa Tôn Ân vẫn là cuộc khởi nghĩa nông dân phản kháng chính quyền phong kiến, hành động giết hại Vương Ngưng Chi, tín đồ Ngũ Đấu Mễ đạo là một minh chứng rõ ràng. Tuy ban đầu nghĩa quân có sự tham gia của không ít phần tử địa chủ bất mãn chính quyền, nhưng chủ yếu vẫn là nông dân cùng khổ và nô tì. Đây chính là cuộc khởi nghĩa nông dân có quy mô lớn mạnh nhất của Lục triều (Đông Ngô - Đông Tấn - Tống - Tề - Lương - Trần).
Đáng tiếc rằng nghĩa quân không kiến lập một căn cứ địa vững chãi làm hậu phương, mỗi lần quan quân tiến đánh lại lui về hải đảo, không thể củng cố chiến quả đã giành được, cuối cùng đã bị trấn áp.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
**Khởi nghĩa Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung
**Khởi nghĩa Yên Bái** (chính tả cũ: _Tổng khởi-nghĩa Yên-báy_) là một cuộc nổi dậy bằng vũ trang bùng phát tại Yên Bái, một phần trong cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Khởi nghĩa Khăn Vàng**, tức** loạn Hoàng Cân**, **loạn Huỳnh Cân** hay** loạn Khăn Vàng** (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: _Hoàng Cân
nhỏ|phải|[[Phan Đình Phùng, thủ lĩnh Khởi nghĩa Hương Khê.]] **Khởi nghĩa Hương Khê** (1885 - 1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương, và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu
Tượng đài [[Trần Văn Thành ở thị trấn Cái Dầu]] **Khởi nghĩa Bảy Thưa** (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên
**Khởi nghĩa Hùng Lĩnh** là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Công cuộc này khởi phát năm 1887 tại Hùng Lĩnh
**Khởi nghĩa Giàng Pả Chay** hay **Nổi dậy Vừ Pả Chay** là một cuộc nổi dậy của người H'Mông chống lại chính quyền thực dân Pháp ở Tây Bắc Đông Dương kéo dài từ năm
**Tôn Ân** (chữ Hán: 孫恩, ? – 402), tự **Linh Tú** , nguyên quán Lang Gia (hay Lang Tà) , đạo sĩ Thiên Sư đạo, thủ lĩnh quân khởi nghĩa chống lại chính quyền nhà
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) **Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế** gồm nhiều di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Khu di tích này
**Khởi nghĩa Ba Đình** là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) Yên Thế, Bắc Kỳ - Nhóm nghĩa quân người Mán dưới quyền thủ lĩnh Phạm Quế Thắng ở Vũ NhaiYên Thế, Bắc Kỳ
**Triệu Thắng** (, ? – 1631), còn có tên là **Triệu Tứ Nhi** hay **Mạnh Trường Canh** , xước hiệu là **Điểm đăng tử** hay **Nhị đội**, người Thanh Giản, Thiểm Tây, thủ lĩnh khởi
**Khởi nghĩa Thái Nguyên** hay **Binh biến Thái Nguyên** là tên gọi cuộc nổi dậy ở tỉnh lỵ Thái Nguyên vào năm 1917 do Trịnh Văn Cấn chỉ huy, chống lại chính quyền Bảo hộ
**Khởi nghĩa Lư Tủng** (chữ Hán: 卢悚起义, Lư Tủng khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nhuốm màu sắc tôn giáo nổ ra vào tháng 12 năm 372, do đạo sĩ Lư Tủng lãnh đạo các
**Khởi nghĩa Lê Ngọc** là cuộc kháng chiến chống nhà Đường, diễn ra vào đầu thế kỷ VII, do Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng 4 người con lãnh đạo. ## Thân thế
**Nam Kỳ khởi nghĩa** là cuộc nổi dậy vũ trang chống Pháp và Nhật của người dân Nam Kỳ vào năm 1940, do Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương
**Phong trào nghĩa binh Áo Đỏ** (chữ Hán: 紅衣軍; Hán Việt: _Hồng Y quân_) xuất hiện vào năm 1410 nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh tại Việt Nam do các nghĩa binh
**Biến loạn Quý Dậu** (癸酉之变), hay **Khởi nghĩa Thiên Lý Giáo** (天理教起义), **Bát Quái Giáo khởi loạn** (八卦教之乱) là một cuộc khởi nghĩa nông dân của giáo phái Thiên Lý năm Gia Khánh thứ 18
**Khởi nghĩa Cristero** () hay **La Cristiada** là một phong trào đấu tranh rộng khắp tại miền Trung và miền Tây nước México diễn ra từ ngày 3 tháng 8 năm 1926 đến ngày 21
**Khởi nghĩa Trunajaya** (còn viết là **Trunojoyo**; ) hay **Chiến tranh Trunajaya** là cuộc khởi nghĩa do vương công người Madura Trunajaya và các chiến binh từ Makassar tiến hành nhằm chống lại Vương quốc
**Khởi nghĩa Bar Kokhba** (132 – 136) do Thầy đạo Simon Bar Kokhba lãnh đạo năm 132 sau Công Nguyên để chống lại Đế quốc La Mã. Ngày 10 tháng 8 năm 117 sau công
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
**Khởi nghĩa Mỹ Lương** (sử cũ gọi là **Giặc Châu Chấu**) là một cuộc nổi dậy từ năm 1854 đến năm 1856 để chống lại triều đình vua Tự Đức, do Lê Duy Cự làm
**Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi**, hay còn được gọi là: **cuộc binh biến của Lê Văn Khôi**, **khởi nghĩa của Lê Văn Khôi**, **sự biến thành Phiên An**, là một cuộc nổi dậy
**Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế** là một cuộc khởi nghĩa chống lại Pháp do Trần Cao Vân, Thái Phiên và vua Duy Tân lãnh đạo. Đây là một cuộc khởi nghĩa có sự hợp
**Cuộc nổi loạn của An Hóa vương** (Hán Việt: An Hóa vương chi loạn, chữ Hán: 安化王之乱), còn gọi An Hóa vương phản loạn, là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Minh diễn
thumb|Vị trí khởi nghĩa thu hoạch mùa thu. **Khởi nghĩa Thu hoạch Mùa thu** () còn được gọi “**khởi nghĩa vụ gặt mùa thu”,** hay **“Khởi nghĩa Thu Thụ”** là cuộc nổi loạn diễn ra
**Khởi nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Đảo chính ngày 9 tháng 9** là một sự kiện chính trị-quân sự mang tính bước ngoặt
**Khoái Ân** (), tự **Đạo Ân**, người huyện Thừa, Lan Lăng , là tướng lĩnh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Theo Lưu Dụ Khi Lưu Dụ chinh thảo quân khởi nghĩa
Cuốn sách Khởi nghĩa vua Duy Tân qua hồ sơ lưu trữ do hai tác giả Lưu Anh Rô và Nguyễn Trương Đàn biên soạn phác họa cho bạn đọc một bức tranh toàn cảnh
Cuốn sách phác họa cho bạn đọc một bức tranh toàn cảnh rất chân thực và sống động về Khởi nghĩa vua Duy Tân năm 1916, bằng các bản cung của những yếu nhân phong
**Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn** hay còn gọi là **Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn** () hoặc bị miệt thị là giặc "quyền phỉ" là một phong trào bạo lực ở tại miền Bắc Trung Quốc
Ngày 02/08/2025, Công ty CP Hiền Nhân Group vinh hạnh tham dự sự kiện “Công bố Khởi động Đề án Xây dựng Bảo tàng Cải lương Nam Bộ”, được tổ chức tại Trung tâm Hội
**Khởi nghĩa Ja Thak Wa** là một cuộc nổi dậy của người Chăm Panduranga bởi Katip Thak Wa (tên tiếng Việt là Điền Sư) lãnh đạo chống lại chính quyền nhà Nguyễn của Hoàng đế
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**_Án lệ 37/2020/AL_** về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản trong trường hợp bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm sau khi kết thúc thời hạn đóng bảo hiểm hay **_Án
nhỏ|320x|Các biểu tượng của các tôn giáo lớn trên thế giới (từ trái qua phải)
Hàng 1: [[Kitô giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo
Hàng 2: Hồi giáo, Phật giáo, Thần đạo
Hàng 3:
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**Ấn Độ** (, ), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Ấn Độ** (, ) là một quốc gia ở khu vực Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ 7 về diện tích và
**Phan Đình Phùng** (chữ Hán: 潘廷逢; 18471896), hiệu **Châu Phong** (珠峰), tự **Tôn Cát**, là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong
**An Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, An Giang có diện tích: 9.889 km², xếp thứ 13; dân
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn