✨Khởi nghĩa Khăn Vàng
Khởi nghĩa Khăn Vàng, tức loạn Hoàng Cân, loạn Huỳnh Cân hay loạn Khăn Vàng (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: Hoàng Cân chi loạn), là một cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại nhà Hán vào năm 184. Cuộc khởi nghĩa có tên này là do các lãnh tụ và binh lính khởi nghĩa đeo khăn vàng trên đầu. Cuộc khởi nghĩa này có liên hệ với phái đạo Lão bí mật và là một trong những mốc quan trọng trong lịch sử đạo Lão.
Nguyên nhân bùng nổ
Cuối thời Đông Hán, triều chính mục nát, ngoại thích và hoạn quan thay nhau hoành hành. Khắp nơi đều có tham quan ô lại, thêm vào đó thiên tai lụt lội, hạn hán triều miên. Hán Linh Đế buông lỏng kỷ cương, không dùng người tài. Nghe theo lời khuyên của các hoạn quan Trương Nhượng và Triệu Trung, Linh Đế tăng thuế khóa thêm 10 đồng trên mỗi mẫu ruộng khiến nhân dân phải đóng góp thêm nặng nề, nhằm có thêm tiền xây cất cung điện.
Hoàng tộc và quan lại ăn chơi xa xỉ. Hán Linh Đế ăn tiêu hoang phí, cho áp dụng chính sách mua bán quan chức: chức Tam công bán 10 triệu, tước hầu bán 5 triệu. Những người sau khi bỏ nhiều tiền ra mua chức tước lại càng vơ vét của dân làm giàu.
Trong hoàn cảnh đó, nhân dân bị bóc lột nặng nề vì sưu cao thuế nặng, không được sống yên ổn từ gần 100 năm
Ba anh em họ Trương dùng phương thức ma thuật hoặc thuật thôi miên, vẽ bùa niệm chú chữa bệnh cứu người, lấy được lòng tin của nhiều người trong thiên hạ. Trương Giác hành nghề chữa bệnh sau hơn 10 năm, nhân danh dùng Đạo giáo tập hợp được rất nhiều tín đồ.
Trước tình hình nhà Hán ngày càng suy yếu và mục nát và mất lòng tin của nhân dân cực khổ, anh em Trương Giác quyết định phát động quần chúng nổi dậy nhằm lật đổ chính quyền Đông Hán.
Ảnh hưởng của anh em Trương Giác ngày càng rộng. Các đệ tử của họ có khắp nơi. Ông kết nạp được 36 vạn giáo chúng, Các kiến nghị này của được Linh Đế chấp thuận.
Hán Linh Đế theo đề nghị của Đại tướng quân Hà Tiến, phái 3 tướng là Bắc trung lang tướng Lư Thực, Tả trung lang tướng Hoàng Phủ Tung và Hữu trung lang tướng Chu Tuấn ra mặt trận đánh dẹp. Lư Thực được cử lên Ký châu, Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn được cử đi Dự châu.
Mặt trận phía nam
Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn điều động tập hợp kị binh 5 hiệu và chiêu mộ thêm binh sĩ, tổng cộng được 40 vạn người. Hai tướng chia nhau suất lĩnh một cánh quân ra đánh quân Khăn Vàng ở Dĩnh Xuyên.
Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn bị tướng Khăn Vàng là Ba Tài đánh bại trận đầu, bèn lui về giữ Trường Xã. Quân Khăn Vàng kéo tới bao vây. Quân Khăn Vàng phần đông là nông dân mới vào quân, chưa quen chiến đấu chuyên nghiệp, chỉ tác chiến ban ngày tới đêm thì ngủ. Một nhược điểm nữa của quân Khăn Vàng là chủ tướng Ba Tài không biết tìm chỗ đóng quân hợp lý, lại chọn nơi đồng cỏ khô đóng đồn trại.
Vì vậy Hoàng Phủ Tung quyết định đánh tập kích vào ban đêm khi quân Khăn Vàng đang nghỉ ngơi không kịp trở tay. Nhân gió đêm đó có gió, Hoàng Phủ Tung dùng hỏa công đánh vào doanh trại địch, đồng cỏ khô cháy dữ dội, quân Khăn Vàng bị phá tan, thiệt hại hàng vạn người.
Mặt trận phía bắc
Ở mặt trận phía bắc vùng Ký châu, Trương Giác chiếm giữ Quảng Tông, khống chế trung tâm Hà Bắc. Tướng Lư Thực mang quân tới giao chiến. Dù quân ít hơn nhưng Lư Thực vẫn bao vây được Quảng Tông. Hai bên giằng co nhiều ngày chưa phân thắng bại.
Hán Linh Đế sai hoạn quan Tả Phong đi thị sát Lư Thực. Tả Phong đòi Lư Thực hối lộ, Lư Thực không chịu đáp ứng. Vì vậy Tả Phong về vu cáo với Hán Linh Đế rằng lẽ ra quân Hán có thể diệt được Trương Giác nhưng Lư Thực không hết sức đánh trận nên chiến sự kéo dài. Hơn 3 vạn xe quân nhu của quân Khăn Vàng bị quân Hán thiêu hủy. Quân chủ lực Khăn Vàng tan vỡ. Hoàng Phủ Tung tìm đến mộ Trương Giác, sai quân băm xác, chặt đầu mang về Lạc Dương dâng Hán Linh Đế.
Các thủ lĩnh Khăn Vàng chỉ còn lại Trương Bảo. Tháng 11 năm 184, Trương Bảo chạy về Hạ Khúc Dương. Hoàng Phủ Tung mang quân đuổi theo, lệnh cho Thái thú Cự Lộc là Phùng Dực cùng hợp lực truy kích. Hai cánh quân phối hợp đại phá quân Khăn Vàng ở Khúc Dương. Trương Bảo bị quân Hán bắt và mang chém. Số quân Khăn Vàng bị giết tại Hạ Khúc Dương lên tới hàng chục vạn người, được chôn chung ở phía nam thành Hạ Khúc Dương thành ngôi mộ rất lớn (kinh quan). Thái thú mới quận Nam Dương là Tần Hiệt mang quân tới giao phong chém chết Trương Man Thành.
Thủ hạ của Man Thành là Triệu Hoằng được tôn làm tướng, tập hợp được vài vạn quân. Các tướng nhà Hán là Chu Tuấn cùng Thứ sử Kinh châu là Từ Cù và Thái thú Nam Dương là Tần Hiệt hợp binh được 18.000 người cùng tấn công Triệu Hoằng. Ba tướng vây đánh từ tháng 6 đến tháng 8 năm 185, cuối cùng Chu Tuấn công phá được Uyển Thành, giết chết Triệu Hoằng.
Quân Khăn Vàng lại tôn Hàn Trung làm tướng, tái chiếm Uyển Thành. Quân Hán ít hơn, Chu Tuấn bèn cho mở vòng vây, cắm doanh trại và dựng núi đất đối diện với thành. Ông cho quân làm nghi binh giả cách muốn đánh mặt nam, quân Khăn Vàng dồn quân ra ứng chiến. Chu Tuấn tự mình lĩnh 5000 tinh binh tấn công phía đông bắc. Quân Hán hăng hái trèo lên mặt thành đánh vào trong. Hàn Trung vội bỏ chạy vào trong Tiểu thành cố thủ, sau đó liệu thế không chống được bèn sai người ra cầu xin đầu hàng.
Các tướng định cho Hàn Trung đầu hàng. Chu Tuấn không nghe, cho rằng làm như vậy là dung túng cho kẻ làm loạn khiến loạn lạc không dứt và thúc quân công phá nhưng liên tiếp mấy tháng không hạ được. Sau khi suy nghĩ, Chu Tuấn hiểu ra rằng Hàn Trung bị dồn đường cùng nên liều chết kháng cự; vì vậy ông dự định cởi bỏ vòng vây cho Hàn Trung chạy ra rồi sẽ truy kích.
Hàn Trung thấy vòng vây được mở, bèn mang quân ra ngoài. Chu Tuấn thừa cơ tấn công, đại phá quân Khăn Vàng, truy kích hơn 10 dặm, giết hơn 1 vạn người. Hàn Trung không chống cự được đành phải đầu hàng, bị Tần Hiệt giết chết.
Những người còn lại của Khăn Vàng lại tập hợp tôn Tôn Hạ làm chủ, lại chiếm đóng Uyển Thành. Chu Tuấn tấn công lần thứ 3, hạ được thành. Tôn Hạ bỏ chạy, Chu Tuấn lại truy kích giết hơn 1 vạn người nữa. Quân Khăn Vàng tan vỡ chạy tứ tán.
Ích châu
Sang năm 186, quân Khăn Vàng vẫn không chấm dứt hoạt động, nông dân tại các vùng bị bóc lột nặng nề vẫn nổi lên theo các tướng Khăn Vàng chống triều đình, tập hợp từng nhóm nhỏ thì 6000-7000 người, nhiều thì 2-3 vạn người. Quân Khăn Vàng bị thua lớn, thiệt hại 3 vạn người, phải bỏ lại xe cộ và lương thực trốn sang sông. Công Tôn Toản nhân lúc quân Khăn Vàng sang nửa chừng bèn thúc quân truy sát, dìm chết vài vạn quân Khăn Vàng nữa. Có 7 vạn quân đầu hàng Công Tôn Toản.
Cùng năm, nhân lúc quân Hắc Sơn không liên kết được với quân Thanh châu, quân phiệt Tào Tháo mang quân đánh nhau với quân Khăn Vàng tại Hắc Sơn. Quân khởi nghĩa tuy đông nhưng ô hợp, bị Tào Tháo dùng kế đánh bại.
Dù bại trận song lực lượng Khăn Vàng còn mạnh. Quân Khăn Vàng chiếm lĩnh Đông quận. Năm 192, quân khởi nghĩa tổ chức phản công. Tào Tháo dùng số quân nhỏ cố thủ ở phía đông Vũ Dương, tự mình mang quân chủ lực tập kích căn cứ Đông quận của địch, chiếm được thành.
Không lâu sau, cánh quân Khăn Vàng từ Thanh châu lại mạnh, tổ chức tấn công Duyện Châu, giết chết thứ sử Lưu Đại. Theo lời đề nghị của Bão Tín, Tào Tháo mang quân đến cứu Duyện châu. Ông cùng quân Khăn Vàng quyết chiến tại Thọ Dương. Bão Tín giao chiến bị tử trận. Tào Tháo mang 1000 quân tập kích doanh trại địch nhưng quân Khăn Vàng đã đề phòng khiến ông suýt bị bắt sống.
Thấy không thể dùng chiến thuật đánh nhanh, Tào Tháo đổi hướng, đánh chắc từng phần. Ông áp dụng chiến thuật tiêu hao từng bước, quân Khăn Vàng phải lùi dần. Sau cùng, Tào Tháo dồn quân Khăn Vàng vào Tế Bắc và bao vây. Khi đó phía sau lưng quân Khăn Vàng là Thanh châu và Ký châu do Viên Thiệu chiếm giữ. Sau một thời gian, quân Khăn Vàng bị tuyệt lương, không còn đường chạy nên phải đầu hàng. Tào Tháo thu hàng 30 vạn người, từ đó trở thành lực lượng hùng hậu. Việc thu phục chứ không tàn sát quân Khăn Vàng của Tào Tháo khiến ông được đánh giá cao hơn Hoàng Phủ Tung trong việc dẹp yên lực lượng này.
Tháng 3 năm 193, quân Khăn Vàng ở Hắc Sơn do Trương Yên và Can Độc cầm đầu liên kết với binh chúng nổi dậy ở Ngụy quận (Ký châu) cùng đánh chiếm Nghiệp Thành, giết chết Thái thú. Vùng đất thuộc quyền sứ quân Viên Thiệu quản lý. Tháng 6 năm đó, Viên Thiệu ra quân đánh vào khe Thương Nhan, núi Cự Tràng, Triều Ca. Sau 5 ngày giao chiến, Can Độc và hơn 1 vạn thủ hạ bị quân Viên Thiệu giết chết.
Viên Thiệu men theo núi tiến quân, lần lượt đánh phá các cánh quân của Trương Bát, Lưu Thạch, Thành Ngưu Giác, Hoàng Long, Quách Đại Hiền, Lý Đại Mục, Vu Đê Căn. Hàng vạn quân Khăn Vàng bị giết, các doanh trại bị Viên Thiệu san bằng.
Lúc đó Lã Bố đang nương nhờ Viên Thiệu, được sai mang quân sang Thường Sơn giao tranh với Trương Yên. Lã Bố cưỡi ngựa Xích thố, mỗi ngày cùng vài chục thủ hạ xông thẳng vào trại địch ba bốn lần. Sau hơn 20 ngày, quân Trương Yên thua tan tác. Trương Yên rút về cố thủ, sau đó nản lòng, cuối cùng nhận sự chiêu an của triều đình, được phong làm Bình nam trung lang tướng, coi việc quân ở Hà Bắc.
Về sau Trương Yên lại cất quân chống triều đình. Triều đình bổ nhiệm Chu Tuấn làm Thái thú Hà Nội, mang quân đánh bại được Trương Yên.
Trương Yên vẫn không hoàn toàn chịu thần phục, sau này lại chiếm cứ Hắc Sơn, thanh thế có hàng chục vạn quân. Năm 199, sứ quân Công Tôn Toản giao tranh với Viên Thiệu bị vây tại Dịch Kinh, bèn sai em là Công Tôn Tục sang Hắc Sơn cầu cứu Trương Yên. Trương Yên nhận lời, dẫn 10 vạn quân chia làm 3 đường đi cứu Công Tôn Toản. Quân cứu viện sắp đến, hẹn Công Tôn Toản đến giờ đốt lửa làm hiệu sẽ cùng giáp công trong ngoài. Nhưng thư bị Viên Thiệu bắt được. Thiệu bèn đốt lửa lừa Công Tôn Toản ra quân rồi phục binh đánh giết. Công Tôn Toản thất bại tự sát. Trương Yên thấy vậy lui binh.
Sau trận Quan Độ (200), thế lực quân phiệt Tào Tháo ngày càng hùng mạnh, Viên Thiệu suy yếu đi nhiều. Viên Thiệu chết (202), các con là Viên Đàm và Viên Thượng tranh quyền. Năm 204, khi Tào Tháo mang quân đánh các con Viên Thiệu là Viên Đàm và Viên Thượng, Trương Yên ở Hắc Sơn sai sứ đến liên lạc với Tào Tháo tỏ ý quy phục, được phong làm Bình bắc tướng quân.
Mùa hè năm 205, thế lực anh em họ Viên ngày càng suy kiệt, Trương Yên chính thức đầu hàng Tào Tháo, được phong làm An Quốc đình hầu. Hoạt động của quân Khăn Vàng từ khi Trương Giác phát động chỉ trong vài tháng, nhưng những người đi sau duy trì thêm hơn 20 năm nữa.
Anh em Trương Giác được so sánh giống như nhiều thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Trung Quốc sau này như Hoàng Sào và Lý Tự Thành: chỉ vì vô cùng bất mãn trước chế độ đương thời mà nhất thời kích động, "cách mạng để cách mạng", hủy diệt hiện tại nhưng sau đó không rõ xây dựng gì cho tương lai. Ngay từ đầu họ đã nhắm mắt hành động một cách mù quáng nên không tránh khỏi thất bại.
Việc xưng làm Cha của Trời, của Đất và của Người của anh em họ Trương bị các sử gia xem là vừa hài hước và thể hiện sự nông cạn, ấu trĩ trong tư duy của họ. Các lực lượng Khăn Vàng sau này tại Thanh châu, Hắc Sơn dù đông nhưng không được tổ chức tốt nên không đủ mạnh và không có ý tưởng gì mới hơn anh em Trương Giác để thắng các thế lực sứ quân trong cuộc hỗn chiến đương thời.
Nhân vật tham chiến trọng yếu
Trong Tam quốc diễn nghĩa
Cuộc khởi nghĩa của anh em Trương Giác được mô tả trong hồi 1 và hồi 2 tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Trong quá trình dẹp cuộc nổi dậy này, tác giả La Quán Trung lần lượt giới thiệu các nhân vật chính của tác phẩm như Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, Tào Tháo, Tôn Kiên với mục đích nêu bật tài năng của những người đánh dẹp.
Do đứng trên quan điểm lấy nhà Hán làm chính thống, tác giả coi lực lượng anh em Trương Giác là cường khấu, dùng phép yêu thuật khi lâm trận.
Về tàn dư của Khăn Vàng, La Quán Trung chỉ đề cập sâu tới lực lượng Uyển Thành (có sự tham gia đánh dẹp của anh em Lưu Bị), còn lực lượng tại Hắc Sơn và Thanh châu được nói tới khá mờ nhạt.