Biến loạn Quý Dậu (癸酉之变), hay Khởi nghĩa Thiên Lý Giáo (天理教起义), Bát Quái Giáo khởi loạn (八卦教之乱) là một cuộc khởi nghĩa nông dân của giáo phái Thiên Lý năm Gia Khánh thứ 18 (1813), xảy ra ở các tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, Trực Lệ và một vài nơi khác. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Lý Văn Thành (李文成), người An Dương, Hà Nam.
nhỏ|Hoàng Đế Gia Khánh|thế=
Tháng 9 năm 1813, Thiên Lý Giáo do Lý Văn Thành lãnh đạo đã phát động cuộc nổi dậy dưới khẩu hiệu "Phụng Thiên Khai Đạo" (奉天开道). Ngày 15 tháng 9 năm 1813, 200 tín đồ Thiên Lý Giáo phát động binh biến ở thủ đô Bắc Kinh, đánh vào Tử Cấm Thành thông qua Đông Hoa Môn và Tây Hoa Môn, là nơi trọng yếu nhất của cỗ máy phong kiến nhà Thanh.
Quá trình
nhỏ|Lâm Thanh
Vào ngày 14 tháng 9, một thủ lĩnh của Thiên Lý Giáo là Lâm Thanh cho khoảng 200 tín đồ cải trang thành thương nhân vào thành Bắc Kinh. Trưa ngày 15, các thái giám Lưu Đắc tài, Lưu Kim, Trương Thái, Cao Nghiễm Phúc và những hoạn quan khác thông đồng với Thiên Lý Giáo mở cả hai cổng Đông Hoa Môn và Tây Hoa Môn, để cho khoảng 40 đến 50 quân nổi dậy tràn vào Tử Cấm Thành qua mỗi cổng. Thị vệ Hoàng cung không phòng bị gì, bất ngờ và hoảng loạn. Nhóm quân nổi dậy tiến vào qua Tây Hoa Môn nhanh chóng đánh đến bên ngoài Long Tông Môn, là cổng dẫn trực tiếp đến Dưỡng Tâm Điện và Tây Lục Cung. Quan binh nhà Thanh rút vào đóng chặt cổng Long Tông Môn cố thủ, các tín đồ Thiên Lý Giáo sau đó trèo tường vào mở cổng Long Tông Môn rồi đánh thẳng đến tận Dưỡng Tâm Điện là nơi ở của Hoàng Đế Gia Khánh. Mặc dù Gia Khánh lúc đó không ở trong cung nên phiến quân không thể hành thích được Hoàng đế, Dưỡng Tâm Điện nằm ngay sát Tây Lục Cung, nơi các Hậu Phi của Gia Khánh sinh sống, trong đó gần nhất là Vĩnh Thọ cung của Như Phi, rồi đến Dực Khôn cung của Hàm Quý Phi và Trữ Tú cung của đương kim Hoàng Hậu.
Tin tức nhanh chóng lan truyền đến tai các chủ tử ở hậu cung, tiếng la hét chém giết khiến họ khiếp sợ. Cùng lúc đó, họ lại nhân thêm một tin xấu khác: tướng Sách Lăng, lãnh đạo thị vệ của Ngọ Môn, sau khi nghe tin Thiên Lý Giáo đánh vào đã bỏ chạy. Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị liền cho người đi báo tin cho các hoàng tử và hoàng tôn đang học tại Thượng Thư phòng. Người đầu tiên đi cứu giá Hoàng nhị tử Miên Ninh, con trai của Hiếu Thục Duệ Hoàng Hậu, sau này là Hoàng đế Đạo Quang. Hoàng nhị tử nghe tin liền cầm theo súng ngắn và dao, lãnh đạo các quan binh đến tới Dưỡng Tâm Điện nghênh địch và bảo vệ Hậu cung. Sau khi tự mình bắn chết hai thủ lĩnh Thiên Lý Giáo và đánh bật quân nổi dậy khỏi Dưỡng Tâm Điện, Miên Ninh xuống năm đạo lệnh: thứ nhất, lập tức cử người đi báo cho Gia Khánh đế, lúc đó đang ở ngoài Bắc Kinh, thứ hai, lệnh cho quan binh vào cung cứu giá rồi đóng hết bốn cổng Tử Cấm Thành để bao vây quân nổi loạn bên trong. Thứ ba, cử Hoàng tam tử Miên Khải đến Trữ Tú cung bảo vệ Đích mẫu Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị. Thứ tư, tự mình dẫn quân đi tuần tra ở quảng trường phía Tây, và thứ năm, cho thị vệ đi tuần tra ở quảng trường phía Đông, gần Trữ Tú cung đề phòng bất trắc.
Đến chập tối, dưới sự tấn công của hơn 1000 quan binh được trang bị tốt cùng với đội súng, cuối cùng các tín đồ Thiên Lý Giáo không thể chống lại được, phải rút chạy khỏi Tử Cấm Thành, hàng chục quân nổi loạn bị tiêu diệt tại Võ Anh Điện.
Quân Thanh sau đó đã đột kích các cơ sở của Thiên Lý Giáo ở các quận Đại Hạnh và Thông Châu ở Bắc Kinh, giết chết hơn 700 người chỉ trong 4 ngày, thủ lĩnh Lâm Thanh bị bắt sống vào ngày 17 tháng 9 rồi bị xử tử. Quan binh nhà Thanh sau đó tiếp tục mở rộng truy quét Thiên Lý Giáo ở các tỉnh khác, Lý Văn Thành dẫn 4000 quân chạy đến huyện Huy thì bị bao vây, cuối cùng tự tử bằng cách tự thiêu. Để tiếp ứng với cuộc nổi dậy của Lâm Thanh ở Bắc Kinh, các thành viên của Thiên Lý Giáo ở các tỉnh Trực, Lộ và Dự cùng với hàng chục quận ở Bắc Trung Quốc đã cùng nổi dậy khởi nghĩa, tuy nhiên, do sự chênh lệch lực lượng với quân đội của triều đình nhà Thanh, họ đã thất bại trong vòng nửa năm và các nhà lãnh đạo nổi dậy đều bị xử tử. Năm Gia Khánh thứ 18 (1813) là năm của Quý Dậu, vì vậy sự kiện này được sử gọi là "Biến loạn Quý Dậu".
Hậu quả
Tin tức về cuộc tấn công của Thiên Lý Giáo vào hoàng cung đã đến tai Gia Khánh trên đường trở về Bắc Kinh vào ngày hôm sau. Gia Khánh vô cùng kinh ngạc, nhưng cũng rất hài lòng về sự dũng cảm của Hoàng nhị tử Miên Ninh. Ông lập tức sắc phong Hoàng nhị tử thành Trí Thân Vương, bổng lộc hàng năm 12200 lượng bạc, khẩu súng ngắn ông sử dụng để bảo vệ Tử Cấm Thành cũng được đặt tên là "Uy Liệt".
Sau khi trở về Bắc Kinh, Hoàng đế Gia Khánh đã tiến hành một cuộc điều tra chi tiết về cuộc tấn công, trong đó có việc Sách Lăng dẫn các binh sĩ trốn thoát. Việc điều tra còn hé lộ việc kế hoạch của Lâm Thanh đã được mật báo từ trước, nhưng các vương công và quan lại đã chần chừ không xử lý và đùn đẩy cho nhau, khiến cuối cùng xảy ra vụ việc. Một tín đồ Thiên Lý Giáo bên cạnh Lâm Thanh tên là Chúc Hiện, có anh trai là Chúc Hải Khánh là một người hầu trong phủ Dự vương. Tuy nhiên, khi Chúc Hải Khánh báo cáo với Dự thân vương Ái Tân Giác La Dụ Phong vào ngày 9 tháng 9, Dự thân vương đã trả lời: "Vẫn còn vài ngày nữa, không cần phải vội, đợi đến khi hoàng đế trở về đã". Tuần tra của cầu Lô Câu cũng phát hiện ra các sự việc bất thường vào những ngày trước sự việc, và huyện lệnh Uyển Bình báo cáo với chỉ huy Cát Luân, đề nghị bắt giữ Lâm Thanh. Cát Luân sau đó đã rất tức giận chửi mắng quan huyện lệnh thậm tệ vì cho rằng ông ta cố tình làm mất uy tín của thời thái bình thịnh thế. Sự thật nằm ở phía trước. Hoàng đế Gia Khánh chỉ ban hành một sắc lệnh, đổ lỗi cho "những việc khởi nghĩa luôn diễn ra trong các triều đại Hán, Đường và Tống" rồi cũng đã xảy ra trong triều đại nhà Thanh.
Tuy nhiên, cho dù Gia Khánh trao thưởng cho con trai hay đổ lỗi cho vấn đề gì, ông cũng không thể che giấu sự thật về sự mục rữa của hệ thống quan lại nhà Thanh, trong khi kỷ luật quân đội ngày càng hủ bại, tất cả thể hiện xu hướng suy tàn của nhà Thanh.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Biến loạn Quý Dậu** (癸酉之变), hay **Khởi nghĩa Thiên Lý Giáo** (天理教起义), **Bát Quái Giáo khởi loạn** (八卦教之乱) là một cuộc khởi nghĩa nông dân của giáo phái Thiên Lý năm Gia Khánh thứ 18
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
**Khởi nghĩa Khăn Vàng**, tức** loạn Hoàng Cân**, **loạn Huỳnh Cân** hay** loạn Khăn Vàng** (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: _Hoàng Cân
**Khởi nghĩa Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung
**Khởi nghĩa Xích Mi** (chữ Hán: 赤眉) là lực lượng khởi nghĩa thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc chống lại sự cai trị của Vương Mãng. Xích Mi quân cùng Lục Lâm quân
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) Yên Thế, Bắc Kỳ - Nhóm nghĩa quân người Mán dưới quyền thủ lĩnh Phạm Quế Thắng ở Vũ NhaiYên Thế, Bắc Kỳ
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Triệu Thắng** (, ? – 1631), còn có tên là **Triệu Tứ Nhi** hay **Mạnh Trường Canh** , xước hiệu là **Điểm đăng tử** hay **Nhị đội**, người Thanh Giản, Thiểm Tây, thủ lĩnh khởi
**Khởi nghĩa Vũ Xương** là một cuộc khởi nghĩa phản Thanh của người Hán của Trung Quốc có tác dụng như chất xúc tác cho cách mạng Tân Hợi, chấm dứt triều đại nhà Thanh
Trong tiếng Việt, từ **Thiên Chúa giáo** thường đề cập tới Công giáo, hoặc Kitô giáo cách chung. Nếu xét về mặt ngữ nghĩa thì cụm từ _Thiên Chúa giáo_ có thể đề cập đến
**Khởi nghĩa Warszawa** () là một cuộc nổi dậy diễn ra trong thế chiến thứ hai do lực lượng kháng chiến Ba Lan Armia Krajowa (**AK**) tiến hành để giải phóng Warszawa từ tay Đức
**_Tân đính Luân lý Giáo khoa thư_** là một tập sách giáo khoa do nhóm giáo viên trường Đông Kinh Nghĩa thục soạn và do trường ấn hành, dùng làm tài liệu giảng dạy, phát
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Cải cách tôn giáo** (chữ Đức: _Reformation_, chữ La-tinh: _Reformatio_), hoặc gọi **Cải chính Giáo hội**, **Tin Lành Cải chính**, là phong trào cải cách và phân liệt tôn giáo của Công giáo La Mã
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Cách mạng Hồi giáo** (hay còn được biết với tên **Cách mạng Iran** hoặc **Cách mạng Hồi giáo Iran**, Tiếng Ba Tư: , _Enghelābe Eslāmi_) là cuộc cách mạng đã biến Iran từ một chế
nhỏ|[[Hồng Tú Toàn, người sáng lập Thái Bình Thiên Quốc]] **Thái Bình Thiên Quốc** (chữ Hán phồn thể: 太平天國, chữ Hán giản thể: 太平天国; 1851–1864) hoặc **Thiên Quốc** là một nhà nước tôn giáo thần
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Lý Định Quốc** (Phồn thể: 李定國, Giản thể: 李定国, 1620-1662), tự **Hồng Thuận** hay **Ninh Vũ**, tên lúc nhỏ là **Nhất Thuần**; người Diên An, Thiểm Tây, có thuyết là Du Lâm, Thiểm Tây; là
**Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn** hay còn gọi là **Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn** () hoặc bị miệt thị là giặc "quyền phỉ" là một phong trào bạo lực ở tại miền Bắc Trung Quốc
**Lý Thế Tích** (李世勣) (594 – 1 tháng 1 năm 670), nguyên danh **Từ Thế Tích** (徐世勣), dưới thời Đường Cao Tông được gọi là **Lý Tích** (李勣), tên tự **Mậu Công** (懋功), thụy hiệu
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Thiên** (zh. 天, sa., pi. _deva_), còn gọi là **Thiên nhân**, **Thiên thần**; với nguyên nghĩa Phạn _deva_ là "người sáng rọi", "người phát quang", trong văn hóa Phật Giáo là một trong 8 loại
**Khởi nghĩa Kim Điền** là một cuộc nổi dậy vũ trang được chính thức tuyên bố bởi Hồng Tú Toàn vào ngày 11 tháng 1 năm 1851 cuối thời nhà Thanh. Cuộc nổi dậy được
**Lý Tùng** (chữ Hán: 李松, ? – 25), người huyện Uyển, quận Nam Dương , là tướng khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân, đầu đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc
**Khởi nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Đảo chính ngày 9 tháng 9** là một sự kiện chính trị-quân sự mang tính bước ngoặt
**Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc**, còn gọi là **Loạn Thái Bình Thiên quốc** (太平天國之亂), là một cuộc nổi loạn quy mô lớn ở Trung Quốc giữa phong trào Thái Bình Thiên Quốc do
**Lý Dật** (chữ Hán: 李轶, ? – 25), tự Quý Văn, người huyện Uyển, quận Nam Dương , tướng lãnh khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân, đầu đời Đông Hán. ## Cuộc đời Họ
nhỏ|Hội Thánh Công lí Thứ nhất tại thị trấn Old Lyme, [[Connecticut|tiểu bang Connecticut.]] **Giáo hội Công lý** (chữ Anh: _Congregationalism_, nghĩa gốc: Công chúng trị lí) hoặc gọi **Hội Thánh Công lí**, **Hội Thánh
**Lý Vạn Khánh** (, ? – 1642), xước hiệu là **Xạ tháp thiên**, người An Hóa (có thuyết Duyên An), Thiểm Tây, từng tham dự đại hội Huỳnh Dương, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân
**Lêôn IX** (Latinh: **Leo IX**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Đamasô Nhị Thế và là vị giáo hoàng thứ 152 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Lý Khánh** (chữ Hán: 李慶, ? – 1427), tên tự là **Đức Phu** (德孚), người huyện Thuận Nghĩa , là quan viên nhà Minh, mất khi trấn áp khởi nghĩa Lam Sơn tại Việt Nam.
**Thiên kinh chi biến** (hay Thái Bình chi biến) là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của Thái Bình Thiên Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trận thảm sát tự
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Đạo giáo** (tiếng Trung: 道教) (_Đạo_ nghĩa là con đường, đường đi, _giáo_ là sự dạy dỗ) hay gọi là _Tiên Đạo_, là một nhánh triết học và tôn giáo của Trung Quốc, được xem
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
nhỏ|Tượng minh hoạ [[Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ học Sarnath của Ấn Độ vào thế kỷ 3-5]] **Phật giáo** (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: _Buddha
Trương Đạo Lăng, người sáng lập tông phái **Thiên sư Đạo** (chữ Hán: 天师道), còn gọi là **Ngũ Đấu Mễ Đạo** (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), **Chính Nhất Đạo** (正一道), **Chính Nhất Minh
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
Tranh vẽ của Nhật Bản mô tả [[Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo. Dòng chữ trên cùng ghi "_Tiên sư Khổng Tử hành giáo tượng_"]] **Nho giáo** (chữ Hán: ) hay **Nho gia**
Các chức sắc và tín đồ ăn mặc lễ phục theo giáo lý của tôn giáo **Giáo lý Cao Đài** là những lý thuyết của đạo Cao Đài ## Mục đích Mục đích của đạo
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Thiện nhượng** (_chữ Hán_: 禪讓) có nghĩa là _nhường lại ngôi vị_, được ghép bởi các cụm từ **Thiện vị** và **Nhượng vị**, là một phương thức thay đổi quyền thống trị của những triều
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,