✨Khởi nghĩa Lư Tuần

Khởi nghĩa Lư Tuần

Khởi nghĩa Lư Tuần (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc, thực chất là sự tiếp nối của khởi nghĩa Tôn Ân (10/399 – 3/402) sau một quãng thời gian nghỉ ngơi – trù bị (gần 6 năm), diễn ra từ tháng 2 năm Nghĩa Hi thứ 6 (410) đến tháng 4 năm Nghĩa Hi thứ 7 (411).

Bối cảnh

Tháng 10 năm Long An thứ 3 (399), đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân lãnh đạo nhân dân Chiết Đông khởi nghĩa chống lại chính quyền Đông Tấn. Tháng 3 năm Nguyên Hưng đầu tiên (402), Tôn Ân đại bại ở Lâm Hải, nhảy xuống biển tự sát. Tàn dư của nghĩa quân đưa em rể của Tôn Ân là Lư Tuần lên làm thủ lĩnh, tiếp tục đấu tranh.

Lúc này thế lực quân phiệt cát cứ 2 châu Giang, Kinh là Hoàn Huyền đã đánh chiếm Kiến Khang , nắm giữ chính quyền Đông Tấn, vì muốn phủ dụ khu vực Chiết Đông, lấy Lư Tuần làm Vĩnh Gia thái thú. Tuần tuy nhận chức nhưng vẫn ngầm khuếch trương thế lực. Tháng giêng năm Nguyên Hưng thứ 2 (403), Lư Tuần tiến vào Đông Dương , bị Lưu Dụ đánh bại, chạy đến Vĩnh Gia . Sau đó, nghĩa quân giao chiến với Lưu Dụ ở một dải Đông Dương, Vĩnh Gia và Tấn An liên tiếp thất bại, đại soái Trương Sĩ Đạo tử trận, Lư Tuần bèn đưa quân theo đường biển rút về phía nam.

Tháng 10 năm Nguyên Hưng thứ 3 (404), nghĩa quân đánh chiếm Phiên Ngung, rồi đến Thủy Hưng, tự xưng Bình nam tướng quân, coi việc Quảng Châu. Khi ấy Lưu Dụ mới bình định Hoàn Huyền, đang cần củng cố quyền lực, chưa thể tiến hành chính thảo, vào tháng 4 năm Nghĩa Hi đầu tiên (405), nhậm mệnh cho Lư Tuần làm Chinh lỗ tướng quân, Quảng Châu thứ sử, Bình việt trung lang tướng. Lư Tuần lấy anh rể Từ Đạo Phúc làm Thủy Hưng tướng.

Diễn biến

Khởi binh Thủy Hưng

Tháng 2 năm Nghĩa Hi thứ 6 (410), nhân lúc Lưu Dụ soái binh tiến đánh Nam Yên, binh lực Kiến Khang trống rỗng, Từ Đạo Phúc đến Phiên Ngung thuyết phục Lư Tuần, cùng nhau khởi binh ở Thủy Hưng. Lư Tuần soái quân tây lộ men theo Tương Thủy vượt Ngũ Lĩnh, đi qua các quận Trường Sa , Ba Lăng , tiến thẳng đến Giang Lăng (châu trị của Kinh Châu); Từ Đạo Phúc soái quân đông lộ thuận dòng Cống Thủy tiến xuống Lư Lăng , Dự Chương, dựa vào thuyền hạm to cao mà đánh cho quan quân đại bại, giết chết Giang Châu thứ sử Hà Vô Kị.

Lưu Dụ nghe tin Vô Kị tử trận, chỉ mang vài mươi kỵ binh, đêm ngày quay về Kiến Khang. Khi ấy, Lư, Từ hợp binh đông hạ, được hơn 10 vạn người, quyết định từ bỏ Giang Lăng, nhắm vào Kiến Khang. Vào tháng 5, nghĩa quân ở cù lao Tang Lạc , cũng dựa vào ưu thế về thuyền hạm mà đánh bại 2 vạn quân của Dự Châu thứ sử Lưu Nghị. Nghĩa quân thừa thắng tiến đến Hoài Khẩu , đóng quân ở Thái Châu (cù lao Thái), áp sát Kiến Khang.

Dùng dằng Kiến Khang

Lư Tuần nghe tin Lưu Dụ đã về Kiến Khang, muốn lui về Tầm Dương , đánh chiếm Giang Lăng, cát cứ 2 châu Giang, Kinh chống lại triều đình nhà Tấn. Từ Đạo Phúc ra sức chủ trương thừa thắng tiến quân, Lư Tuần do dự mất vài ngày, miễn cưỡng nghe theo, tiếp tục đông tiến. Lúc này nghĩa quân có 10 vạn người, thuyền lầu có 4 tầng, cao đến 12 trượng, nối nhau dài hàng trăn dặm; trong khi Kiến Khang chỉ có vài ngàn quân, triều đình một phen hoảng loạn, không ít triều thần muốn đưa Tấn An đế vượt Trường Giang lánh nạn. Từ Đạo Phúc chủ trương từ Tân Đình đến Bạch Thạch , đốt thuyền lên bờ, cùng Lưu Dụ tử chiến, nhưng Lư Tuần trù trừ không quyết.

Lưu Dụ nhân lúc nghĩa quân dừng lại, tu sửa thành trì, đắp 3 tòa lũy ở Tra Phố, Dược Viên, Đình Úy, điều quân đến những nơi này bố trí phòng ngự; tại những cứ điểm mỏng yếu từ Hoài Bắc đến Tân Đình dùng thật nhiều người coi giữ; còn đặt công sự ở Thạch Đầu, cắt ngang Tra Phố . Đồng thời quân đội Giang Hoài lũ lượt kéo về, trong đó còn có hơn ngàn đột kỵ người Tiên Ti vận phục trang da cọp, trong khi Lư Tuần vẫn lấy cớ "đợi quân đội từ Tam Ngô đến cứu ứng" để trì hoãn việc tấn công.

Lưu Dụ đã hoàn tất việc bố phòng, Lư Tuần đưa hơn mười chiến hạm muốn đến đánh công sự ở Thạch Đầu, rồi lại không đánh. Lư Tuần đặt phục binh ở bờ nam, sai những người già yếu cưỡi thuyền đi đánh Bạch Thạch. Lưu Dụ trúng kế, kéo quân đến giữ Bạch Thạch, Lư Tuần bèn thiêu hủy Tra Phổ mà lên bờ, giết chết tham quân Từ Xích Đặc đang trấn thủ bờ nam sông Tần Hoài, đưa mấy vạn quân đến đóng ở Đan Dương quận bên bờ nam. Lưu Dụ vội quay về, một mặt chia quân giữ thành Thạch Đầu, một mặt tuyển binh sĩ Hán, Tiên Ti đột phá trận địa của nghĩa quân. Lư Tuần không địch nổi, quay sang tấn công Kinh Khẩu và các huyện phụ cận Kiến Khang, nhưng Lưu Dụ kiên trì tiến hành chiến thuật "thanh dã" (vườn không nhà trống), nên nghĩa quân không làm được gì!

Thảm bại Kinh Châu

Nghĩa quân đã neo thuyền ở Thái Châu được 2 tháng, binh mỏi lương hết, đến đầu tháng 7, phải lui về Tầm Dương. Lưu Dụ một mặt phái quân truy kích; một mặt sửa sang thủy quân, đóng những chiến hạm cao hơn 10 trượng, hòng đập tan ưu thế về thủy chiến của nghĩa quân; một mặt phái Hoài Lăng nội sử Tác Mạc lĩnh kỵ binh Tiên Ti đi cứu Kinh Châu. Lư Tuần quay lại đón đánh Tác Mạc, chỉ phái một lực lượng nhỏ do Cẩu Lâm chỉ huy đi đánh Giang Lăng. Tháng 9, Kinh Châu thứ sử Lưu Đạo Quy liên kết với Ung Châu thứ sử Lỗ Tông Chi đánh bại và giết chết Cẩu Lâm. Lư Tuần lại sai Từ Đạo Phúc soái 3 vạn quân đánh Giang Lăng, bị Kinh Châu thứ sử Lưu Đạo Quy mai phục đánh cho đại bại, tổn thất hơn vạn người, lui về Bồn Khẩu .

Tháng 10, Lưu Dụ soái bọn Duyện Châu thứ sử Lưu Phiên, Ninh sóc tướng quân Đàn Thiều tấn công nghĩa quân. Tháng 11, quân Tấn đánh chiếm Nam Lăng ở cửa khẩu hồ Bành Lễ , nghĩa quân tổn thất hơn trăm chiến hạm và hơn 5000 người.

Lư Tuần đánh tiếng sẽ thuận dòng ra biển, nhưng Lưu Dụ không hề bị mê hoặc, tiến quân đến đóng ở đồn thú Đại Lôi thuộc Lôi Trì , đồng thời phái bộ tướng Vương Trọng Đức soái 200 cỗ chiến hạm đến Cát Dương ở hạ du thiết lập phòng tuyến, đề phòng nghĩa quân ra biển thật. Tháng 12, Lư Tuần, Từ Đạo Phúc soái vài vạn quân từ Tầm Dương xuất phát, ở phụ cận Đại Lôi cùng Lưu Dụ quyết chiến. Lưu Dụ một mặt mai phục bộ kỵ ở bờ tây, một mặt tận dụng ưu thế thuận gió cùng chiến hạm nhanh nhẹ, mà xua thủy quân tấn công, ép thuyền hạm của nghĩa quân dạt vào bờ tây. Đài quân từ trên bờ tung lửa đốt thuyền, khiến cho nghĩa quân đại bại. Lư Tuần chạy về Tầm Dương, muốn lui về Quảng Châu, bèn thiết lập công sự ở Tả Lý . Quân Tấn công phá Tả Lý, nghĩa quân liều chết vẫn không giữ nổi, tổn thất lên đến vạn người. Lư Tuần chạy về Phiên Ngung, Từ Đạo Phúc chạy về Thủy Hưng.

Thua mất Quảng Châu

Tháng 2 năm Nghĩa Hi thứ 7 (411), Duyện Châu thứ sử Lưu Phiên đến Lĩnh Nam, phái Tư nghị tham quân Mạnh Hoài Ngọc tiến quân vào Thủy Hưng, Hà Gian thái thú Khoái Ân chém chết Từ Đạo Phúc.

Tháng 3, Lư Tuần về đến Phiên Ngung, thì thành đã bị Kiến uy tướng quân Tôn Xử đưa 3000 quân theo đường biển đến chiếm mất từ tháng 11 năm trước. Lư Tuần tấn công nhiều ngày không hạ được thành, Chấn vũ tướng quân Thẩm Điền Tử đến cứu viện. Tôn Xử cùng Điền Tử trong ngoài giáp kích, Lư Tuần bỏ chạy. Tôn, Thẩm hợp binh lần lượt đuổi kịp nghĩa quân ở Thương Ngô, Úc Lâm, Ninh Phổ, đều giành thắng lợi. Nhưng vì Tôn Xử phát bệnh, Điền Tử cũng dừng lại, nên Lư Tuần chạy thoát đến Giao Châu.

Trầm mình Giao Châu

Tháng 4, Lư Tuần tập kích phá được Hợp Phố, theo đường tắt tiến vào Giao Châu. Giao Châu thứ sử mới nhậm chức là Đỗ Tuệ Độ phân phát gia tài, mộ được 6000 người trong châu đẩy lui nghĩa quân. Lư Tuần tuy thất bại, nhưng vẫn còn hơn 3000 quân, hợp binh với bọn Lý Thoát là tàn dư của khởi nghĩa Lý Tốn, được hơn 5000 người Man Liêu nữa, muốn giành lấy Giao Châu. Lư Tuần đưa quân đến bến nam Long Biên , Đỗ Tuệ Độ đưa quân đón đánh. Quân của Tuần đều là thủy quân, quân của Tuệ Độ đều là bộ quân, không tiện giao chiến. Tuệ Độ đốt đuốc trĩ vĩ, ném lên thuyền của nghĩa quân, phần lớn thuyền hạm của nghĩa quân đều bị bốc cháy. Lư Tuần biết là không tránh được, bèn bắt vợ con uống rượu độc, rồi ném thây xuống sông. Sau đó, Tuần cũng nhảy xuống nước tự sát. Tuệ Độ cho vớt thây của Tuần lên, chặt đầu, đặt trong một loại hòm nhỏ trang trí tinh xảo, cùng với đầu của bọn Lý Thoát 7 người, đưa về Kiến Khang.

Đến đây, cuộc khởi nghĩa nông dân do Tôn Ân khởi xướng, được Lư Tuần kế tục đã thất bại hoàn toàn.

Ảnh hưởng và đánh giá

Khởi nghĩa Lư Tuần là một trong số rất ít các cuộc khởi nghĩa nông dân sử dụng thủy quân để chiến đấu của lịch sử Trung Quốc. Với ưu thế tuyệt đối về thuyền hạm, nghĩa quân đã từng áp sát Kiến Khang, làm rúng động tận gốc chính quyền Đông Tấn. Nhưng do chỉ huy thiếu quyết đoán, nghĩa quân không chỉ bỏ lỡ thời cơ giành thắng lợi, mà còn nhanh chóng suy bại.

Sau khi trấn áp khởi nghĩa, Lưu Dụ tiến hành bãi miễn những chính sách bóc lột hà khắc của giai cấp sĩ tộc đối với nhân dân Giang Nam, tạo điều kiện cho kinh tế của khu vực này phát triển phồn vinh trong những năm đầu nhà Lưu Tống.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khởi nghĩa Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung
**Khởi nghĩa Khăn Vàng**, tức** loạn Hoàng Cân**, **loạn Huỳnh Cân** hay** loạn Khăn Vàng** (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: _Hoàng Cân
**Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循, ? – 411), tên tự là **Vu Tiên**, tên lúc nhỏ là **Nguyên Long**, người huyện Trác, Phạm Dương . Ông đã kế tục anh vợ Tôn Ân lãnh đạo
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
**Khởi nghĩa Thanh Sơn** là một trong số các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp ở vùng hạ lưu sông Đà thuộc Bắc Kỳ (Việt Nam). Công cuộc này khởi phát năm 1890 đến năm 1892
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
**Khởi nghĩa Warszawa** () là một cuộc nổi dậy diễn ra trong thế chiến thứ hai do lực lượng kháng chiến Ba Lan Armia Krajowa (**AK**) tiến hành để giải phóng Warszawa từ tay Đức
**Khởi nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Đảo chính ngày 9 tháng 9** là một sự kiện chính trị-quân sự mang tính bước ngoặt
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Khởi nghĩa Cristero** () hay **La Cristiada** là một phong trào đấu tranh rộng khắp tại miền Trung và miền Tây nước México diễn ra từ ngày 3 tháng 8 năm 1926 đến ngày 21
**Lư Tượng Thăng** (chữ Hán: 盧象昇, 1600 – 1638/1639), tên tự là **Kiến Đẩu**, hiệu là **Cửu Đài**, người huyện Nghi Hưng tỉnh Trực Lệ, nhân vật chính trị và tướng lĩnh nổi tiếng cuối
nhỏ|phải|Một con tuần lộc nuôi đang thay lông nhỏ|phải|Một con tuần lộc nuôi giống đực ở [[Alaska]] **Chăn nuôi tuần lộc** hay **chăn thả tuần lộc** (_Reindeer herding_) là các hoạt động chăn nuôi, chăn
**Phong Hóa** (1932 - 1936) là một tuần báo xuất bản tại Hà Nội (Việt Nam), và đã trải qua hai thời kỳ: từ số 1 (ra ngày 16 tháng 6 năm 1932) đến số
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
phải|Các đền thờ trong không gian [[Hoa Lư tứ trấn]] **Hoa Lư tứ trấn** là bốn vị thần trấn giữ các hướng đông, tây, nam, bắc của cố đô Hoa Lư trong tín ngưỡng dân
**Cách mạng Hồi giáo** (hay còn được biết với tên **Cách mạng Iran** hoặc **Cách mạng Hồi giáo Iran**, Tiếng Ba Tư: , _Enghelābe Eslāmi_) là cuộc cách mạng đã biến Iran từ một chế
**Trương Hiến Trung** (chữ Hán: 张献忠, 01 tháng 1, 1600 – 02 tháng 1, 1647), tên tự là **Bỉnh Trung**, hiệu là **Kính Hiên**, người bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Từ Đạo Phúc** (chữ Hán: 徐道覆, ? – 411), tướng lĩnh khởi nghĩa nông dân chống lại chính quyền Đông Tấn, anh rể của thủ lĩnh Lư Tuần. ## Xuất thân Sử cũ không ghi
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
**Cao Nghênh Tường** (, ? – 1636), còn có tên là Như Nhạc, tước hiệu là **Sấm vương**, người An Tắc, Thiểm Tây, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Minh. Ông là cậu
**Lưu Phúc Thông** (, 1320-1367), người Tây Lưu Doanh, Dĩnh châu, phủ Nhữ Ninh, thủ lĩnh trên thực tế của phong trào khởi nghĩa Khăn Đỏ ở miền bắc Trung Quốc vào cuối đời Nguyên.
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
Lâm Xuyên Liệt Võ Vương **Lưu Đạo Quy** (chữ Hán: 劉道規, 370 – 25 tháng 7, 412), tên tự là **Đạo Tắc**, người Tuy Lý, Bành Thành , tướng lãnh nhà Đông Tấn, hoàng thân
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Lưu Mục Chi** (刘穆之), tên tự là **Đạo Hòa**, tên lúc nhỏ là Đạo Dân , là kiều dân ở Kinh Khẩu , mưu sĩ thân cận của quyền thần Lưu Dụ cuối đời Đông
**Niệp quân** () là những lực lượng vũ trang nông dân hoạt động tại các khu vực giáp ranh của 8 tỉnh An Huy - Hà Nam - Sơn Đông - Giang Tô - Hồ
**Đổng Hiến** (chữ Hán: 董宪, ? – 30), người quận Đông Hải, Từ Châu , thủ lĩnh khởi nghĩa cuối đời Tân, trở thành thủ lĩnh quân phiệt đầu đời Đông Hán. ## Cuộc đời
**Nghĩa Vũ quân**, còn được gọi là **Dịch Định quân** , là một phiên trấn do một tiết độ sứ do nhà Đường bổ nhiệm ở vùng Hà Bắc ngày nay, tồn tại từ năm
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Thần điêu hiệp lữ** là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu, trong truyện có nhiều nhân vật mang tiểu sử
**Trương Định** (chữ Hán: 張定; 1820 – 1864) hay **Trương Công Định** hoặc **Trương Trường Định**, là võ quan triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử
**Lưu Phiên** (chữ Hán: 刘籓 hay 藩, ? – 412), người huyện Bái, nước Bái , tướng lãnh Bắc phủ binh cuối đời Đông Tấn. ## Cuộc đời và sự nghiệp Phiên là em họ
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
**Tư Mã Sở Chi** (, 390 – 464) là đại tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Tư Mã Sở Chi có tên tự là Đức
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Hoàng Công Chất** (黃公質, 31 tháng 1 năm 1706 - 21 tháng 3 năm 1769), là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn giữa thế kỷ 18, chống lại triều đình
**Trương Xương** (chữ Hán: 张昌, ? – 304), người dân tộc thiểu số ở quận Nghĩa Dương, Kinh Châu , thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Tây Tấn. ## Cuộc đời và sự
nhỏ|[[Hồng Tú Toàn, người sáng lập Thái Bình Thiên Quốc]] **Thái Bình Thiên Quốc** (chữ Hán phồn thể: 太平天國, chữ Hán giản thể: 太平天国; 1851–1864) hoặc **Thiên Quốc** là một nhà nước tôn giáo thần
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Lư Quang Trù** (, ? - 910) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường, sau đó ông trên danh nghĩa quy phục cả Hậu Lương và Ngô. Ông cai quản Kiền châu từ
**Lý Định Quốc** (Phồn thể: 李定國, Giản thể: 李定国, 1620-1662), tự **Hồng Thuận** hay **Ninh Vũ**, tên lúc nhỏ là **Nhất Thuần**; người Diên An, Thiểm Tây, có thuyết là Du Lâm, Thiểm Tây; là
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử