✨Thế Lữ

Thế Lữ

Thế Lữ (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ (sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch người Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò là một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóaNgày nay.

Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957 – 1977). Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ mới, trong lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt Nam. Thế Lữ đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.

Tiểu sử

Thế Lữ, tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê cha ông ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định. Tên Nguyễn Đình Lễ sau đó được đổi thành Nguyễn Thứ Lễ vì ông là con thứ. Khi lên 10 tuổi, người anh trai (hơn ông một tuổi) mất, ông lại đổi tên lại thành Nguyễn Đình Lễ. Lớn lên ông dùng lại tên Nguyễn Thứ Lễ, khi viết văn nói lái lại là Nguyễn Thế Lữ, sau rút gọn thành Thế Lữ. Bút danh Thế Lữ, mang nghĩa "người khách đi qua trần thế" lại phù hợp với quan niệm sống của ông khi ấy.

Cha ông là sếp ga xe lửa trên tuyến đường sắt Lạng Sơn – Thanh Hóa. Mẹ ông sinh ra trong gia đình Công giáo, kết hôn với cha ông trước, nhưng lại không được gia đình bên nội thừa nhận. Khi mới vài tháng tuổi, Thế Lữ bị đưa rời khỏi mẹ, đem lên Lạng Sơn sống cùng bà nội, cha và u (vợ chính thức của cha). Xa mẹ từ nhỏ, mỗi năm có được gặp một đôi lần, nên theo như Thế Lữ nhớ lại, chủ đề chính từ khi ông còn bé cho đến năm 10 tuổi là xa cách, nhớ thương người mẹ ruột của mình. Sống ở xứ Lạng Sơn, núi rừng thiên nhiên nơi đây với những câu chuyện kinh dị ma quái mà ông được nghe từ nhỏ đã trở thành nguồn tư liệu, tạo cảm hứng cho các tác phẩm văn xuôi của ông sau này.

Cuộc đời

nhỏ|Thế Lữ (13 tuổi) cùng mẹ và em gái (1921) Thế Lữ học chữ Nho khi lên 8 tuổi, học chữ Quốc ngữ khi lên 10. Sau khi anh trai mất, ông được quay trở về Hải Phòng ở với mẹ. Ở Hải Phòng, ông học tư với cha của Vũ Đình Quý, người bạn thân đầu tiên của ông. Ít lâu sau, ông xin vào học lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (École communale) mới mở ở Ngõ Nghè. Năm 1924, ông thi đỗ Sơ học (cepfi), sau đó ốm một năm. Khi đó, mới 17 tuổi, Thế Lữ đã lập gia đình với Nguyễn Thị Khương, người vợ hơn ông 2 tuổi.

Năm 1925, ông vào học Cao đẳng Tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, học được 3 năm thì bỏ. Những năm học Thành chung, ông chịu tác động từ tinh thần yêu nước của giới học sinh, qua báo Việt Nam hồn từ Pháp gửi về, cũng như từ những thầy giáo như Trịnh Đình Rư, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tảo.

Năm 1929, ông lên Hà Nội, thi đỗ dự thính vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học cũng chỉ một năm rồi lại bỏ do bất mãn với một giáo sư và giám hiệu của trường. Hai cuốn Một truyện báo thù ghê gớmTiếng hú hồn của mụ Ké sau được Vũ Đình Long khen ngợi và cho in ra, điều này cũng đã khuyến khích Thế Lữ rời bỏ trường Mỹ thuật. Một nguyên nhân khác nữa bởi ông bị lao, tuy nhiên sau đó được chữa khỏi bệnh. Từ bỏ con đường hội họa, Thế Lữ bước hẳn sang hoạt động sáng tác văn chương.

Hoạt động văn học và Tự Lực văn đoàn

Trước khi về Hải Phòng, Thế Lữ làm người sửa bản in cho báo Volonté Indochinoise (Ý muốn của Đông Dương), thường đi làm qua Vườn bách thảo Hà Nội, thời gian này ông đã viết bài thơ nổi tiếng Nhớ rừng. Sau khi trở về Hải Phòng, được mẹ cho dựng một căn nhà lá cạnh Đồ Sơn để chữa bệnh, Thế Lữ bắt đầu tập trung vào viết văn và làm thơ. Một trong những bài thơ đầu tiên của ông là Lời than thở của nàng Mỹ thuậtLựa tiếng đàn để gửi cho các bạn trường Mỹ thuật ở Hà Nội.

Sau khi tờ Phong hóa (bộ mới) ra mắt (tháng 9 năm 1932), Thế Lữ đã chào đón và gửi bài. Bài thơ đầu tiên của Thế Lữ trên Phong hóaCon người vơ vẩn đăng vào số Tết năm 1933. Bên cạnh đó, Nguyễn Tường Tam còn đặc biệt chú ý đến những truyện Một đêm trăng, Vàng và máu, cũng như tác giả của hai truyện này, cho rằng đó là một "cây bút mới mẻ", "có triển vọng", "sẽ kết nạp cho được và chắc chắn không khó khăn". Không lâu sau, Thế Lữ được mời vào làm việc tại Phong hóa, và Nhất Linh sau đó cũng có bài viết trân trọng, đề cao Thế Lữ và thơ văn của ông.

Tháng 3 năm 1934, Tự Lực văn đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên ban đầu: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam, Tú Mỡ và Thế Lữ, cũng là các thành viên nòng cốt của tờ Phong hóa (mới). Thế Lữ tán đồng với quan niệm của Tự Lực văn đoàn và Phong hóa: lên án tư tưởng Nho giáo phong kiến, đả kích thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội bằng sự châm biếm hài hước, đồng thời đổi mới quan niệm sáng tác, giải phóng cá nhân, và đấu tranh xây dựng nền văn chương và ngôn ngữ Việt. Cũng từ đó, gần 10 năm, hoạt động văn học và báo chí của Thế Lữ gắn bó chặt chẽ với Tự Lực văn đoàn, và cũng hầu như thu gọn trong khoảng thời gian này.

Về báo chí, ông tham gia viết báo, biên tập cho tờ Phong hóa rồi tờ Ngày nay (ra mắt sau khi Phong hóa đóng cửa năm 1936). Với các bút danh Thế Lữ, Lê Ta, Mười Ba Chàng, ông viết bài cho các chuyên mục "Cuộc điểm báo", "Cuộc điểm sách", "Từ cao đến thấp"..., (Phong hóa) rồi "Điểm báo", "Tin thơ", "Tin văn... vắn"... (Ngày nay). Ngoài các mục cố định, Thế Lữ còn có nhiều bài bình luận, phân tích về các vấn đề văn chương, nghệ thuật, các bài phê bình sách. Ông là giám khảo cho tất cả ba cuộc thi của Tự Lực văn đoàn (1935, 1937, 1939), góp tiếng nói giúp khẳng định những tác phẩm được trao giải. Mục Tin thơ do ông phụ trách toàn bộ cũng phát hiện và khích lệ một số khả năng Thơ mới; đồng thời Thế Lữ, cùng với Lưu Trọng Lư, Huy Thông và các nhà thơ, tác giả khác, cũng góp công lớn trong việc đem lại thành công cho phong trào Thơ mới, chống lại thơ cũ, bảo vệ và đề cao thơ mới bằng các bài báo, đăng các sáng tác trong đó có sáng tác của chính mình. Bài thơ Nhớ rừng gây tác động mạnh mẽ lên công chúng, cùng các bài thơ nổi tiếng khác sau đó như Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo thiên thai..., được đăng trên Phong hóa, sau này được tập hợp lại trong tập thơ đầu tay Mấy vần thơ (1935), đã góp phần đem lại thắng lợi hoàn toàn cho phong trào Thơ mới, cũng như đưa ông trở thành một nhà thơ tiêu biểu của Thơ mới thuở ban đầu. Ngoài ra, ông còn có nhiều tác phẩm văn xuôi, ở các thể loại trinh thám, kinh dị và lãng mạn, cũng gây được sự chú ý của công chúng.

Thế Lữ là một trong các tác giả Tự Lực có nhiều tác phẩm nhất được Nhà xuất bản Đời nay phát hành. Từ năm 1934 đến năm 1943, ông cho ra mắt 12 cuốn sách, trung bình mỗi năm một cuốn, có những năm hai (1937, 1942), ba cuốn (1941). Đáng chú ý nhất là tập truyện đầu tay Vàng và máu (1934, được Khái Hưng viết lời giới thiệu), tập thơ thứ nhất Mấy vần thơ (1935), sau được sửa chữa và bổ sung nhiều bài mới trong Mấy vần thơ, tập mới (1941).

Kể từ năm 1937, ông dành nhiều thời gian và tâm huyết cho sân khấu kịch nói, dù vẫn làm việc tại báo Ngày nay cho tới khi tờ này đóng cửa (sau 1940). Sau 1945, hoạt động và tư tưởng của Thế Lữ tách rời hẳn với hoạt động của Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thế Lữ sau này đã phủ định mạnh mẽ hầu như toàn bộ đóng góp của Tự Lực văn đoàn vào nền văn hóa dân tộc, và Phạm Đình Ân đã coi đó là suy nghĩ cực đoạn, phiến diện, nhất thời trong bối cạnh xã hội - chính trị lúc bấy giờ. Dù vậy, những năm tháng cuối đời, Thế Lữ khi hồi tưởng về thời kỳ này đã nói: "Không có báo Phong hóa, Ngày nay, không có bạn bè Tự Lực, không có bạn thơ văn ngày ấy ăn ở với nhau như bát nước đầy, sẵn lòng yêu tài, mến đức của nhau... thì không có Thế Lữ".

Hoạt động sân khấu trước 1946

Bước khởi đầu

Thế Lữ làm quen với sân khấu kịch nói từ năm 1923, khi lần đầu tiên được xem vở Tây Nam đắc bằng của Nguyễn Đình Kao, vở kịch nói chuyển thể từ tuồng cổ. Đến năm 1928, khi đang học năm thứ 3 Thành chung, nhân dịp Hội Trí tri (Hải Phòng) tổ chức quyên tiền xây dựng sân bóng, Thế Lữ đã đóng vai lão Quý trong vở Lọ vàng - do Mai Phương phóng tác từ Cái nồi (La marmite) của Plautus - dưới sự hướng dẫn của Hoàng Ngọc Phách và được Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hữu Kim hết lời khen ngợi. Ở Hà Nội, ông được xem một số buổi diễn của ban kịch Pháp "Les comédiens français", hay nhóm kịch của Claude Bourain. Đến năm 1932, ông bắt đầu tham gia phê bình, góp ý cho một số vở diễn, đồng thời viết một vở bằng tiếng Pháp mang tên Le cauchemar d'un étudiant (Cơn ác mộng của một sinh viên – đã được Năm Châu chuyển thể thành cải lương). Ông còn tìm đọc nhiều sách báo viết về nghệ thuật sân khấu bằng tiếng Pháp. Thế Lữ say mê sân khấu kịch Pháp, muốn lấy đây làm đích để vươn lên cho sân khấu Việt Nam. Thời kỳ này, dù sáng tác kịch nói Việt Nam đã ra đời hơn chục năm (từ năm 1921 với Chén thuốc độc của Vũ Đình Long), thì hoạt động biểu diễn kịch nói lúc này vẫn còn mang tính nghiệp dư, các buổi diễn được tổ chức đều phải dựa vào cớ "vì việc nghĩa", diễn kịch để làm từ thiện, và cũng vì thế mà chất lượng nghệ thuật không được cả người diễn lẫn khán giả chú trọng. Thế Lữ chủ trương chống lối diễn kịch trên, ông kêu gọi trên báo Ngày nay số 116:

Nhóm kịch Tinh hoa

Năm 1936, một nhóm các văn nghệ sĩ bao gồm Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Phạm Văn Hạnh, Trần Bình Lộc, Nguyễn Đỗ Cung, Vũ Đình Liên... thành lập một ban kịch lấy tên Tinh hoa, với mục đích "khởi sắc kịch Việt Nam khả dĩ không thua kém kịch trường Pháp". Nhóm kịch có báo Tinh hoa làm cơ quan ngôn luận. Đây cũng là lần đầu tiên ở Việt Nam, tập hợp đông đảo các văn, nghệ, kịch, họa sĩ, tổ chức quy củ nên một ban kịch nghiệp dư với mục đích phụng sự nghệ thuật, "vì sân khấu" chứ không phải vì bất cứ công việc từ thiện nào. Đêm kịch diễn ra thành công, và các diễn viên cũng gây dấu ấn với khán giả bằng diễn xuất của mình.

Vở kịch Ông Ký Cóp do Thế Lữ đạo diễn quảng cáo trên báo Ngày nay (1938) Được một thời gian, báo Tinh hoa đình bản và ban kịch cũng ngừng hoạt động. Thế Lữ, với mong muốn tiếp tục hoạt động sân khấu, đã quay trở về Hải Phòng, tiếp tục gây dựng nhóm kịch Thế Lữ. Bên cạnh các thành viên cũ, còn có thêm các diễn viên mới như Lê Thương, Linh Tâm, Huyền Thanh, Thanh Hương, Lan Bình, Song Kim, Minh Trâm...; Tô Ngọc Vân, Lê Thị Lựu làm họa sĩ trang trí. Nhóm kịch đã cho ra mắt một số vở diễn tại Nhà hát lớn Hải Phòng, bao gồm Kim tiền của Vi Huyền Đắc (tháng 2 năm 1938), chương trình kịch ngắn gồm bốn vở Những bức thư tình, Mơ hoa, Gái không chồng, Kiều Liên của Đoàn Phú Tứ, chương trình hai vở Sau cuộc khiêu vũ (Đoàn Phú Tứ) và Ông Ký Cóp (Vi Huyền Đắc). Thế Lữ ngoài công việc đạo diễn còn đảm nhận vai chính trong một số vở, như Đường trong Gái không chồng, Minh trong Sau cuộc khiêu vũ, ông Ký Cóp trong Ông Ký Cóp.

Sau những đêm diễn ở Hải Phòng, Thế Lữ mong muốn được đem nhóm kịch lên Hà Nội. Một may mắn đến với cả nhóm là lời mời của tờ báo Tin tức, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Được Nguyên Hồng, Như Phong gợi ý, tờ báo muốn mời nhóm kịch Thế Lữ lên diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội để làm công tác vận động quần chúng. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Đào Duy Kỳ ở Tin tức, nhóm đã dàn dựng và công diễn hai vở Ông Ký Cóp (19 tháng 11 năm 1938) và Lọ vàng (13 tháng 5 năm 1939). Hai đêm diễn đều gây tiếng vang lớn đổi với khán giả Hà Nội và nhận được nhiều bài tường thuật, bình luận trên các báo, đặc biệt là các bài phê bình tích cực của Như Phong, Nguyễn Tuân, Chu Ngọc, Thạch Lam.

Thời gian này, bên cạnh công việc tại tòa soạn báo Ngày nay, Thế Lữ chủ yếu ở ngôi nhà trên Ngã Tư Sở, được ông thuê làm trụ sở cho nhóm kịch. Hoạt động kịch của Thế Lữ gặp phải sự phản đối của Nhất Linh và Hoàng Đạo (nhà văn) trong Tự Lực văn đoàn, bởi họ không muốn Thế Lữ vì thế mà giảm sút hoạt động làm báo với họ. Ngược lại, Khái Hưng, Thạch Lam và Tú Mỡ lại ủng hộ nhóm kịch. Khái Hưng viết một số vở kịch cho nhóm, Thạch Lam viết nhiều bài phê bình để khích lệ. Về Tú Mỡ, vốn say mê nghệ thuật sân khấu, cũng hứa tham gia nhóm kịch khi nào Thế Lữ cần.

Nửa cuối năm 1939, nhóm kịch của Thế Lữ hoạt động trầm lặng, chỉ đi diễn ở một số tỉnh lẻ. Ngoài Lọ vàng, trong năm này nhóm chỉ dựng vở Đoạn tuyệt (do Nguyễn Xuân Đào soạn từ tiểu thuyết của Nhất Linh). Vở này lần đầu ra mắt vào tháng 3 năm 1939, có sự tham gia lần đầu của Tú Mỡ với nhiều sáng tạo trong vai Thân, anh chồng giàu có nhưng đần độn, nhạt nhẽo. Nhìn chung, sau những buổi trình diễn, nhóm kịch Thế Lữ tỏ ra có uy tín vững chắc hơn ban kịch Tinh hoa trước đây, bởi kịch bản và trình độ nghệ thuật chắc chắn trong cách diễn, cách dàn dựng của Thế Lữ và các nghệ sĩ của nhóm. Một thời gian sau, Thạch Lam qua đời vì bệnh phổi, sức khỏe Thế Lữ cũng yếu đi sau đó. Vợ chồng ông lại được Tú Mỡ giúp thuê hộ một nơi ở mới trên đường Láng, gần ngôi nhà của gia đình Tú Mỡ. Ngôi biệt thự tên là Song An của Vũ Quýnh (Phán Quýnh), bạn của Tú Mỡ cùng làm tại Nha tài chính Đông Dương. Lúc này, báo Ngày nay đã đình bản, gia đình Thế Lữ lâm vào cảnh khó khăn. Song Kim nuôi thỏ để cải thiện kinh tế, còn Thế Lữ dành thời gian rỗi rãi để học thêm chữ Hán. Thế Lữ là đạo diễn kiêm diễn viên của đoàn, họa sĩ trang trí có Phạm Văn Đôn, Trần Đình Thọ, Nguyễn Thị Kim, riêng Trịnh Như Lương đóng vai trò thủ quỹ và Phạm Văn Khoa làm giao dịch kiêm kỹ thuật hậu đài.

Hoạt động chưa được bao lâu, ban kịch Thế Lữ đã gặp khó khăn từ phía chính quyền. Cơ quan kiểm duyệt I.P.P. tăng cường giám sát khắt khe đối với ban kịch. Vở Kinh Kha, lấy đề tài từ chuyện nhà Tần xâm lược nước Yên, bị cấm diễn sau khi đã ra mắt tại Nhà hát lớn; vở Kim tiền thay thế cũng bị yêu cầu cắt bỏ phần cuối do có đoạn công nhân mỏ đấu tranh chống lại chủ. Để diễn vở này, đoàn kịch phải thay thế đoạn trên bằng chuyện lục đục trong gia đình nhà chủ mỏ. Cuối năm 1943, Võ Đức Diên, một kiến trúc sư giàu có, tìm đến gặp Thế Lữ, muốn lập ban kịch và mời Thế Lữ tham gia. Hai bên đồng ý thỏa thuận: Võ Đức Diên mua lại ban kịch Thế Lữ, chịu trách nhiệm về phần kinh tế, đồng thời mời các cộng tác viên của ban kịch Thế Lữ cũ, cho Thế Lữ nắm quyền chỉ đạo hoàn toàn về nghệ thuật. Ban kịch mới, xây dựng trên cơ sở của ban Thế Lữ, lấy tên là Đoàn kịch Anh Vũ.

[[Nhà hát Lớn Hà Nội|Nhà hát lớn Hà Nội, nơi thường ra mắt các vở diễn của Thế Lữ và đoàn kịch.]] Rời trại Doi, Thế Lữ - Song Kim lên ở ngôi nhà ở bãi Nghĩa Dũng, là trụ sở mới của đoàn kịch. Bên cạnh các thành viên cũ, đoàn kịch có thêm sự tham gia của Đỗ Nhuận, Bùi Công Kỳ, các thành viên ít tuổi của ban cải lương Đồng Ấu Tây Phi như Thọ Sơn, Giáng Hương, Thúy Ái, Thúy Nga, Thái An..., đặc biệt là ba nghệ sĩ cải lương nổi tiếng: vợ chồng Sỹ Tiến - Khánh Hợi cùng nghệ sĩ Vân Trung. Được Thế Lữ thuyết phục, các nghệ sĩ cải lương cuối cùng cũng sáp nhập vào đoàn kịch, tham gia cả những vai kịch nói. Kịch thơ Dương Quý Phi mở đầu mùa kịch, chia làm hai vở Trầm Hương ĐìnhMã Ngôi Pha, có sự tham gia của Sỹ Tiến trong vai An Lộc Sơn, Thu Hà trong vai Dương Quý Phi được khán giả yêu thích. Thế Lữ đóng vai Đường Minh Hoàng, với diễn xuất khiến người xem thấy "rung động trong lòng, tiếc nuối mối tình dang dở và thương nhân vật phải ôm hận nghìn đời".

Thời gian đoàn kịch ở Hà Nội, các đêm ra mắt vở mới luôn được tổ chức ở Nhà hát lớn, sau đó đem về diễn cố định tại rạp Hiệp Thành. Đến đầu năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, hoạt động sân khấu ở Hà Nội trở nên khó khăn. Để tránh sự chú ý của quân Nhật, Thế Lữ và Đoàn Anh Vũ quyết định đi lưu diễn ở các tỉnh. Hành trình dự định của đoàn là từ Hà Nội đi dọc Quốc lộ 1, vào Sài Gòn, sang Campuchia rồi mới trở ra Bắc. Trong thời gian lưu diễn từ Nam Định tới Thanh Hóa, đoàn kịch cùng sáng tác chung một vở, lấy tên là Đời nghệ sĩ, kể về những nghệ sĩ sân khấu lang thang chịu sự ngược đãi của các chủ gánh hát, bỏ đi lập nên một đoàn riêng, phục vụ cho những ý tưởng nghệ thuật cao đẹp. Những diễn viên của Anh Vũ thể hiện những vai giống như chính mình ngoài đời, đặc biệt có sự tham gia diễn xuất của cả các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Bùi Công Kỳ và Nguyễn Xuân Khoát.

Cách mạng tháng Tám

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng 8 nổ ra khi đoàn đang diễn tại thị xã Thanh Hóa. Ngay hôm đấy, các nghệ sĩ dàn dựng một chương trình đặc biệt đón chào sự kiện trọng đại này. Vở Đời nghệ sĩ được bổ sung thêm cảnh cuối: những nghệ sĩ lang thang vui sướng đón chào cách mạng. Đoàn còn dựng gấp màn hoạt cảnh Những trang oanh liệt, phác họa lại lịch sử Việt Nam với những anh hùng dân tộc, kết thúc là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cùng bài hát Tiến quân ca.

Trước khi từ Thanh Hóa vào Vinh, đoàn Anh Vũ dựng vở kịch lịch sử có nội dung chống Pháp, Đề Thám của Lưu Quang Thuận. Đến Vinh, Thế Lữ lại viết và dựng các vở kịch ngắn theo yêu cầu của thành phố nhân dịp Tuần lễ vàng, bao gồm: Phan Đình Phùng tiếp sứ, Ông đồ Giáp - Bagin, Người loong toong trong sở mật thám, mở đầu cho hàng chục vở kịch ứng biến ông viết trên đường lưu diễn về sau.

Quay trở ra Bắc, đoàn kịch dừng lại diễn ở những địa điểm đã đi qua. Nhiều thành viên rời bỏ đoàn trên đường đi, một số thành viên xây dựng gia đình, một số tham gia đoàn quân Nam tiến chống Pháp. Đoàn kịch Anh Vũ dần tự giải tán. Tháng 4 năm 1946, Thế Lữ – Song Kim về đến Hà Nội.

Tham gia kháng chiến

Trước khi chiến tranh bùng nổ

Trở về ngôi nhà cũ ở bãi Nghĩa Dũng, Hà Nội sau chuyến lưu diễn, gia đình Thế Lữ lại rơi vào cảnh khó khăn túng bấn. Lúc này tình hình chính trị, đảng phái đang rất phức tạp; đôi khi một số thành viên Quốc dân Đảng như Trọng Lang Trần Tán Cửu thường đến nhà chơi, chuyển lời mời gặp của Nguyễn Tường Tam đến Thế Lữ. Mặc dù như đã từng nói với Song Kim "Suốt đời anh chỉ sống cho văn chương, nghệ thuật mà thôi. Anh không làm chính trị", nhưng sau Cách mạng tháng 8, Thế Lữ thể hiện thái độ ủng hộ Việt Minh và Chính phủ Hồ Chí Minh. Ông từ chối gặp mặt Nguyễn Tường Tam, cũng như không viết bài cho báo Việt Nam của Quốc dân Đảng.

Cuối năm 1946, tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và quân Pháp lên cao, nhiều người dân tản cư trước cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Được lời mời của một người bạn trong ban kịch là Nghiêm Hà Ngữ, Thế Lữ - Song Kim quyết định tản cư về Hòa Xá, Hà Đông..Vợ chồng ông khởi hành ngày 10 tháng 12, dù lúc đó vẫn hy vọng tản cư ít lâu rồi quay trở lại. Tối ngày 19 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Thế Lữ - lúc đó đang ở Hòa Xá - nói với Song Kim: "Chúng ta không về Hà Nội nữa! Chúng ta đi kháng chiến". "Nhưng chúng ta sẽ làm gì được cho kháng chiến?", Song Kim hỏi. Thế Lữ trả lời: "Làm kịch! Phải! Làm kịch kháng chiến!".

Sau khi bắt liên lạc với Bùi Huy Phồn ở Vân Đình, Thế Lữ được biết về việc triệu tập các văn nghệ sĩ lên chiến khu Việt Bắc. Sau Tết Nguyên đán, đầu năm 1947, Song Kim và Thế Lữ lên đường từ Hòa Xá sang Phú Thọ, khởi đầu những tháng năm tham gia kháng chiến của hai người.

Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc (tháng 7 năm 1948) thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam, Thế Lữ được bầu làm Ủy viên thường vụ Ban chấp hành của Hội, kiêm trưởng Đoàn Sân khấu Việt Nam.

Năm 1949, với phong trào văn nghệ đầu quân tham gia bộ đội, Đoàn Sân khấu Việt Nam chuyển thành Đoàn kịch Chiến Thắng. Thế Lữ, Song Kim cùng các nghệ sĩ trong đoàn đi theo các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, đi biểu diễn nhiều nơi tại Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên... Ông tham gia đóng và dàn dựng hầu hết các vở của đoàn, như Đợi chờ, Giác ngộ, Anh Sơ đầu quân, Vết cũ, Vợ người thương binh, Ba người thợ... Tác giả của nhiều vở trong số này là Nguyễn Huy Tưởng, người cộng tác thường xuyên và tích cực nhất với Thế Lữ và đoàn kịch.

Năm 1952, Thế Lữ làm chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương. Ông dàn dựng bốn màn vở Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng. Sau chiến thắng của quân đội Việt Minh tại Nghĩa Lộ, Thế Lữ viết và đạo diễn vở Tin chiến thắng Nghĩa Lộ, có sự tham gia của Song Kim vai bà mẹ, Thế Lữ vai Ké Hàm, một vai diễn thành công khác của ông. Thời gian này, ông cũng đi vào tìm hiểu về chèo, trực tiếp tham gia đóng và dàn dựng một số vở chèo.

Trong những năm Chiến tranh Đông Dương, bên cạnh làm kịch kháng chiến, Thế Lữ còn hoạt động văn học và báo chí. Ông là Ủy viên Ban Biên tập tạp chí Văn nghệ xuất bản hàng tháng ở Việt Bắc, tiền thân của báo Văn nghệ ngày nay.

Sau 1954

Sau hiệp định Genève, hòa bình lập lại, Thế Lữ cùng các văn nghệ sĩ kháng chiến trở về Hà Nội. Ông tiếp tục hoạt động sân khấu, tham gia Đoàn Kịch nói Trung ương, tiền thân của Nhà hát Kịch Việt Nam. Thế Lữ dàn dựng lại toàn bộ vở Những người ở lại trên sân khấu Hà Nội, có sự tham gia của các diễn viên như Trúc Quỳnh, Mạnh Linh, Nguyễn Ninh, Hoàng Uẩn... Năm 1955, ông là Trưởng ban Nghiên cứu Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Năm 1962, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần III, Thế Lữ tiếp tục được bầu làm Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành. Ông là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II (1960–1964). Trong hồ sơ Văn phòng Quốc hội ghi Thế Lữ lúc đó là "Tổng đạo diễn thành phố Hà Nội".

Từ thập niên 1960 trở đi, bên cạnh công tác tổ chức ở Hội Sân khấu, Thế Lữ ít tham gia biểu diễn trực tiếp mà thiên về lĩnh vực dịch thuật. Ông là dịch giả của nhiều kịch bản và tư liệu sân khấu. Ông còn được xem là một người thầy, một cố vấn giàu kinh nghiệm, luôn động viên và giúp đỡ những nghệ sĩ sân khấu đàn em.

Thế Lữ nghỉ hưu năm 1977. Năm 1979, ông vào Thành phố Hồ Chí Minh sống với người vợ đầu và các con sau nhiều năm xa cách. Năm 1984, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt I.

Thế Lữ qua đời do tuổi già vào ngày 3 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 81 tuổi. Năm 1954, vợ và ba người con sau đã di cư vào miền Nam và sau này mãi đến năm 1979 gia đình Thế Lữ mới đoàn tụ. Người con cả tên Nguyễn Đình Nghi (1928 – 2001), từng tham gia kháng chiến cùng cha, được cha trực tiếp truyền nghề sân khấu. Nguyễn Đình Nghi ở lại miền Bắc, về sau trở thành một đạo diễn sân khấu nổi tiếng và được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1988. Trở thành người bạn đời của Thế Lữ, bà đã gắn bó với ông trong nhiều thập niên sau đó. Sự nghiệp của Song Kim cũng gắn với hoạt động sân khấu của Thế Lữ, được Thế Lữ dìu dắt, bà đã đóng nhiều vai trong các vở kịch do Thế Lữ đạo diễn. Song Kim là một trong những diễn viên tiêu biểu của sân khấu kịch nói Việt Nam thời kỳ đầu, và cùng với Thế Lữ được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân ngay trong đợt đầu tiên. ::Tôi chỉ là một khách tình si ::Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể. ::Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ, ::Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca

Thơ

Thế Lữ đã ra mắt khoảng hơn 50 bài thơ, chủ yếu được sáng tác trước năm 1945 và in trên hai tờ Phong hóaNgày nay, sau tập hợp vào hai tập thơ: Mấy vần thơ (1935) và Mấy vần thơ, tập mới (1941, gồm tập thơ cũ được bổ sung thêm một số bài mới). Tập thơ đầu, Mấy vần thơ được xem là tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới thời kỳ 1932-1935, Vũ Ngọc Phan không tán thành với Hoài Thanh, ông cho rằng cái đẹp tưởng tượng kia của Thế Lữ một ngày nào đó có thể trở thành cái đẹp có thực nơi trần thế. Thơ Thế Lữ cũng thể hiện cảm hứng dồi dào với nghệ thuật và với nàng Thơ mà theo Uyên Thao, nghệ thuật đã là "một phần cuộc sống", "một người bạn tâm giao" hay được ông coi như "một người yêu" của chính mình.

Nhiều sáng tác thơ của Thế Lữ cũng về đề tài tình yêu. Tình yêu trong thơ Thế Lữ thường thiên về thanh cao, mộng ảo, chứ không say đắm yêu đương hay buông tuồng như các bài thơ mới sau này. Thơ Thế Lữ thiếu đi cái xúc động, cái mãnh liệt của ái ân đôi lứa như trong thơ của Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Theo Hoàng Như Mai, tình yêu trong thơ Thế Lữ không phải để cứu cánh mà là để làm nền để vẽ nên cái Đẹp; ông đã dựng nên nhiều kiểu tình yêu "tiêu cực": mơ hồ, mộng tưởng, vô vọng, đau khổ... Dù vậy, ông không ca ngợi cái đẹp của tình yêu vô vọng đau khổ, mà tìm thấy ở đó những khoảng đẹp của niềm hy vọng, sự hy sinh...

Theo Nguyễn Hoành Khung, thơ Thế Lữ thể hiện "cái tôi" muốn thoát ly với xã hội; ở một số bài thơ (Người phóng đãng, Con người vơ vẩn, Tự trào...), ông tạo dựng hình ảnh một kiểu người tài tử, bất hòa với xã hội, chán ghét cuộc sống trưởng giả, sống ngông nghênh, cô độc và kiêu hãnh.

;Cách tân nghệ thuật Thế Lữ được xem là người có đóng góp đáng kể vào việc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Tuy chưa thoát hẳn khỏi phong cách diễn đạt ước lệ của thơ cũ, thơ ông đã có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật. Vì lý do này, Thế Lữ thường sử dụng lối "bắc cầu" thông dụng trong thơ Pháp, nhằm kết dính các câu thơ và cả đoạn thơ thành một mạch với nhau. Ở thời kỳ đầu của Thơ mới, những cách tân của Thế Lữ đã mở đường cho bút pháp của nhiều nhà thơ sau này. Uyên Thao khi bình luận, cũng cho rằng Thế Lữ chỉ hoàn toàn thành công ở một số bài như Nhớ rừng, Ý thơ, Tiếng sáo Thiên Thai, Giây phút chạnh lòng, còn lại thì chỉ thành công ở từng tiếng, từng âm, trong mỗi đoạn, mỗi câu.

Dù như thế nào, ảnh hưởng và vai trò tiên phong của Thế Lữ đối với thơ mới vẫn được công nhận. Vũ Ngọc Phan ghi nhận: "Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai của thơ mới". Truyện của ông, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). Ở thể loại huyền bí, huyền tưởng và trinh thám, các sáng tác của Thế Lữ chịu ảnh hưởng từ văn chương duy lý phương Tây nói chung và các tác phẩm của Edgar Allan Poe nói riêng, có truyện (Trại Bồ Tùng Linh) lại viết theo phong cách của Bồ Tùng Linh với Liêu trai chí dị. Ở nhiều tác phẩm, Thế Lữ vừa phủ lên nó sự rùng rợn, huyền bí, lại vừa lý luận để giải thích những hiện tượng trên một cách khoa học. Điều này cũng phù hợp với quan niệm của Thế Lữ và nhóm Tự Lực văn đoàn thời đấy, tức đề cao khoa học, chống sự thần bí hoang đường, "đem phương pháp khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương Việt Nam". Nhiều truyện được ông viết kỹ lưỡng, lối hành văn của ông có nhiều ưu điểm, như theo Phạm Thế Ngũ: "Trong tất cả các nhà văn Tự Lực văn đoàn, Thế Lữ có lẽ là người có câu văn tinh vi rèn giũa hơn cả... Câu văn của ông có tính cách phân tích, cú pháp chặt chẽ, mạch nghĩa sáng tỏ, chữ dùng chính xác, nhiều khi không ghét sự cao kỳ, sự kiểu cách, song nhất định không chấp nhận sự trùng điệp, sự nhàm thường". Với tác phẩm này, Phan Trọng Thưởng đánh giá Thế Lữ là "tác giả đạt đến đỉnh cao nghệ thuật" của loại truyện ly kỳ rùng rợn, Lê Huy Oanh gọi đây là "một trong những tác phẩm thuộc loại truyện rùng rợn có giá trị lớn trong kho tàng tiểu thuyết Việt Nam". Gồm một truyện vừa (Vàng và máu) và ba truyện ngắn (Một đêm trăng, Con châu chấu tre, Ma xuống thang gác), trong đó đặc sắc nhất là Vàng và máuMột đêm trăng, tập truyện này được đánh giá cao ở lối kể chuyện hấp dẫn, li kỳ, gây tò mò và xúc động cho độc giả, Vũ Ngọc Phan đánh giá ở thể loại này Thế Lữ chưa thành công. Ở thể loại lãng mạn, đáng kể là tập truyện Gió trăng ngàn (1941), gồm tám truyện ngắn, được xem như những "bài thơ bằng văn xuôi", tất cả đều kể về những mối tình đẹp và thơ mộng giữa những chàng trai miền xuôi và những cô gái vùng cao, trong bối cảnh núi rừng thiên nhiên miền sơn cước. Ông ưa thích sự bạo liệt, hình thức trau chuốt, vẻ đẹp hoàn hảo, lộng lẫy của sân khấu cổ điển Pháp, đặc biệt luôn yêu thích và học hỏi lối diễn của nữ diễn viên Pháp Sarah Bernhardt. Dù vậy, cho đến trước Cách mạng tháng 8, ông vẫn chưa hề đọc một cuốn sách nước ngoài nào về công việc đạo diễn.

Khi chưa được tiếp xúc trực tiếp với phương pháp hiện thực tâm lý của Stanislavsky, nhìn chung phong cách và quan niệm diễn xuất của Thế Lữ đã nằm trong những nguyên lý cơ bản của phương pháp này. Ông đặt ra yêu cầu đối với người diễn viên là phải diễn xuất cho chân thực: "Phải căn cứ vào sự thực hoàn toàn, cố chép cho giống với sự thực một cách chi ly. Có như thế mới làm khán giả tin được, vững chắc trên cái nền tả chân, rồi sau mới tô điểm, thêm bớt, mà có lẽ sẽ bớt nhiều hơn thêm". Theo nhà nghiên cứu Tất Thắng: "Thế Lữ đã tạo ra một lối diễn kỹ về động tác, cử chỉ ngoại hình, và bước đầu có sự phân tích hợp lý trong sự phát triển về tâm lý nhân vật. Một thời người ta đã gọi đó là diễn kịch kiểu Thế Lữ".

Là một đạo diễn, bên cạnh diễn xuất, ông còn quan tâm đặc biệt đến phần đài từ của diễn viên, đòi hỏi người diễn viên phải thốt lời sao cho "tròn vành rõ chữ", mạch lạc, rành rẽ, thể hiện sự hiểu biết thấu đáo về ý nghĩa của từng câu chữ. Ông cũng chú trọng nhiều đến hóa trang, phục trang, ánh sáng, mỹ thuật và cách bài trí sân khấu, để tìm ra hiệu quả tối đa ở mỗi vở diễn.

Về sáng tác, Thế Lữ là tác giả của hơn 20 kịch bản kịch nói, hai vở kịch thơ (Tục lụyDương Quý Phi), đồng tác giả vở chèo Tấm Điền và ca kịch bài chòi Tiếng sấm Tây Nguyên (viết cùng Thanh Nhã). Phần lớn tác phẩm kịch của ông được viết nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ phục vụ cách mạng và kháng chiến hoặc chỉ khi tập thể của ông cần. và trong bài báo năm 1971, ông nói rằng mình đang thai nghén viết một "vở kịch đầu tiên".

Thế Lữ mong muốn tìm ra một phong cách riêng cho sân khấu Việt Nam mà không rập khuôn theo lối kịch châu Âu. Thế Lữ cũng chủ trương đem chất thơ mộng, huyền ảo vào sân khấu, vì thế những vở kịch nói của ông không chỉ là nói mà còn xem lẫn nhiều kịch câm (như diễn xuất của Thế Lữ trong Ông Ký Cóp, Người mù, Tin chiến thắng Nghĩa Lộ...). Ông cũng thử nghiệm cải tiến lối ngâm thơ trong kịch thơ Dương Quý Phi (1942, gồm hai vở Trầm hương đìnhMã Ngôi Pha), chủ trương phát huy tính nhạc điệu, tính hàm súc của lời thơ trong cách nói thường chứ không ngân nga như lối diễn trước đó. Những sáng tạo trên, cũng như những sáng tác chèo và ca kịch sau này, được xem như những thể nghiệm của Thế Lữ nhằm mục đích sáng tạo ra một loại kịch nói mang tính dân tộc, một "cách phô diễn Việt Nam" cho sân khấu. Trong lời truy điệu dành cho Thế Lữ, Tổng Thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam Dương Ngọc Đức phát biểu:

Ông đã được dựng tượng đặt ở chính giữa Nhà truyền thống của Nhà hát Kịch Việt Nam, có tiền thân là Đoàn Kịch nói Trung ương do ông sáng lập. Năm 2000, Thế Lữ được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật trong lĩnh vực sân khấu cho hai tác phẩm Cụ đạo, sự ôngĐề Thám, hai vở kịch được ông sáng tác và biểu diễn trong những năm kháng chiến.

Thế Lữ đã được đặt tên cho một số đường phố ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh:

  • Đường Thế Lữ, xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Đường Thế Lữ, phường Mân Thái và An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
  • Đường Thế Lữ, phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
  • Đường Thế Lữ, phường Thuận Lộc, quận Phú Xuân, thành phố Huế.
  • Đường Thế Lữ, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
  • Đường Thế Lữ, phường Biên Giang, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
  • Đường Thế Lữ, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
  • Đường Thế Lữ, phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
  • Đường Thế Lữ, phường 9, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
  • Đường Thế Lữ, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Danh mục tác phẩm

;Thơ

  • Mấy vần thơ (1935), 47 bài thơ.
  • Mấy vần thơ, tập mới (1941).
  • Nhớ rừng(1934) (in trọng tập mấy vần thơ).

;Kịch

  • Dương Quý Phi (1942), gồm hai vở: Trầm hương đình. Mã Ngôi Pha.
  • Người mù (1946).
  • Cụ đạo sư ông (1946).
  • Đoàn biệt động (1947).
  • Đề Thám (1948).
  • Đợi chờ (1949).
  • Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952).

Thế Lữ cũng là dịch giả nhiều vở kịch của Shakespeare, Goethe, Schiller...

;Truyện:Vàng và máu (1934). :Bên đường thiên lôi (1936). :Lê Phong phóng viên (1937). :Mai Hương và Lê Phong (1937). :Đòn hẹn (1937). :Gói thuốc lá (1940). :Gió trăng ngàn (1941). :Trại Bồ Tùng Linh (1941). :Thoa (truyện ngắn, 1942). :Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953). :Tay đại bợm (truyện ngắn, 1953). :Ba hồi kinh dị (truyện ngắn, 1968).

;Lời bài hát:Xuân và tuổi trẻ (1946) phổ lời cho nhạc bởi La Hối.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
**Lư Tượng Thăng** (chữ Hán: 盧象昇, 1600 – 1638/1639), tên tự là **Kiến Đẩu**, hiệu là **Cửu Đài**, người huyện Nghi Hưng tỉnh Trực Lệ, nhân vật chính trị và tướng lĩnh nổi tiếng cuối
Cung cấp đầy đủ lượng sắt cần thiết cho cơ thể.Bổ sung đầy đủ những dưỡng chất cần thiết cho cơ thể, tạo điều kiện hấp thụ và chuyển hóa sắt diễn ra hiệu quả
Cung cấp đầy đủ lượng sắt cần thiết cho cơ thể.Bổ sung đầy đủ những dưỡng chất cần thiết cho cơ thể, tạo điều kiện hấp thụ và chuyển hóa sắt diễn ra hiệu quả
Cung cấp đầy đủ lượng sắt cần thiết cho cơ thể.Bổ sung đầy đủ những dưỡng chất cần thiết cho cơ thể, tạo điều kiện hấp thụ và chuyển hóa sắt diễn ra hiệu quả
**Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 101** là một trong hai đơn vị hải quân đánh bộ cấp lữ đoàn của Hải quân Nhân dân Việt Nam. ## Lịch sử Tiền thân của lữ đoàn
**Lữ hầu** (chữ Hán: 吕侯) là đại thần nhà Chu thời Chu Mục vương, phụ tá Chu Mục vương trị quốc. Vì chư hầu có mâu thuẫn với nhà Chu nên ông trình báo với
Dưỡng da đôi khi có thể lười nhưng dưỡng mắt thì nhất định không được phép lười. Vì vùng da quanh mắt chính là nơi tố cáo tuổi tác của chúng ta rõ nhất.Gom kem
THE ORDINARY BUFFET + COPPER PEPTIDE 1% ̂́ ̛̛́, ̣ ̂̀ ̀ ̂́ ̃ ́ ̀ ̣̂.Phù hợp cho loại da: Da thường Da dầu Da hỗn hợp Da khô Da mụn Da nhạy cảm
Dưỡng Thể Victoria's Secret Bare Vanilla 75ml tách từ Gift Set được thiết kế nhỏ gọn, phù hợp để cho vào vali hay giỏ xách. Là lựa chọn hoàn hảo cho bạn khi đi du
MÔ TẢ SẢN PHẨM‼️‼️Tất cả sản phẩm The Ordinary của Bluehamos đều mua từ Hàn Quốc tại Olive Young và Shinsegae Mall (duty free) có hoá đơn đầy đủ nên các bạn cứ yên tâm
BƠ DƯỠNG THỂ CÀ PHÊ ĐẮK LẮKDầu cà phê Đắk Lắk rất giàu cafein, kết hợp với dầu mù u và bơ cacao, tất cả hòa quyện nên một thể bơ sánh mịn giúp dưỡng
BƠ DƯỠNG THỂ CÀ PHÊ ĐẮK LẮKDầu cà phê Đắk Lắk rất giàu cafein, kết hợp với dầu mù u và bơ cacao, tất cả hòa quyện nên một thể bơ sánh mịn giúp dưỡng
BEAUTIFUL DAY✨nhẹ nhàng tạo nên cảm giác tinh khiết, tươi mát, thanh tao và không kém phần ngọt ngào.✔Hương đầu: Táo, Lê, và quả Lý chua đen✔Hương giữa: Hoa Mẫu Đơn Hồng, Hoa Cúc La
MÔ TẢ SẢN PHẨM Sau một ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi thì việc chăm sóc bản thân sẽ là phương pháp giúp bạn trấn tĩnh và thả lỏng cơ thể. Một trong những
BƠ DƯỠNG THỂ CÀ PHÊ ĐẮK LẮKDầu cà phê Đắk Lắk rất giàu cafein, kết hợp với dầu mù u và bơ cacao, tất cả hòa quyện nên một thể bơ sánh mịn giúp dưỡng
BƠ DƯỠNG THỂ CÀ PHÊ ĐẮK LẮKDầu cà phê Đắk Lắk rất giàu cafein, kết hợp với dầu mù u và bơ cacao, tất cả hòa quyện nên một thể bơ sánh mịn giúp dưỡng
Thương hiêu: CocoonXuất xứ: Việt NamTrọng lượng: 200mlHạn sử dụng: 3 năm kể từ NSX Dầu cà phê Đắk Lắk rất giàu cafein, kết hợp với dầu mù u và bơ cacao, tất cả hòa
Lăn Khử Mùi Scion - Nhập khẩu và phân phối bởi công ty Nuskin Việt NamCẢNH BÁO HÀNG NHÁI: toàn bộ lô hàng Lăn Khử Mùi Scion mới từ sau 9/9 toàn bộ không có
KEM DƯỠNG TRẮNG DA BODY #LOSHI chiết xuất dầu ngựa cao cấp - Horse oil body Cream 200g Kem dưỡng thể trắng da mỡ ngựa Loshi được chiết xuất từ tinh dầu ngựa lên men
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
phải|Du thuyền thăm [[Khu du lịch sinh thái Tràng An]] phải|Tam Cốc mùa lúa chín Phong cảnh [[cố đô Hoa Lư nhìn từ núi Mã Yên]] phải|Động Vái Giời ở [[Thung Nham]] Toàn cảnh Điện
**Giải bóng chuyền cúp Hoa Lư** là giải thi đấu bóng chuyền thường niên trong hệ thống các giải đấu bóng chuyền Việt Nam và được xem là giải đấu mở màn cho một mùa
nhỏ|phải|Sơ đồ kinh đô Hoa Lư nhỏ|phải|Những ngọn núi đá tự nhiên được các triều vua nối lại bằng tường thành nhân tạo **Cố đô Hoa Lư** (chữ Hán: 華閭) là kinh đô của Việt
Lễ tế cổ truyền tại đền Vua Đinh Tiên Hoàng Sân khấu lễ hội Hoa Lư tại quảng trường [[cố đô Hoa Lư]] Rồng vàng trong lễ hội Cờ Lau **Lễ hội Hoa Lư** là
**Hoa Lư** là một huyện cũ thuộc tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Năm 2025, huyện này được sáp nhập với thành phố Ninh Bình cũ để thành lập thành phố Hoa Lư. ## Địa lý
phải|Các đền thờ trong không gian [[Hoa Lư tứ trấn]] **Hoa Lư tứ trấn** là bốn vị thần trấn giữ các hướng đông, tây, nam, bắc của cố đô Hoa Lư trong tín ngưỡng dân
**Người Lự**, còn gọi là **người Tày Lự**, **người Thái Lự** (Tai Lue, Tai Lü) (tiếng Thái: ไทลื้อ; ; tiếng Lự:ᦟᦹᧉ, ), hay còn gọi là **Thái Lặc tộc** (phiên âm Hán Việt; ) là
**Lữ Gia** (chữ Hán: 呂嘉, cũng được dịch là **Lã Gia**, 191 TCN – 110 TCN), tên hiệu là **Bảo Công** (保公) là Thừa tướng của ba đời vua nhà Triệu nước Nam Việt. Ông
nhỏ|Một trong nhiều đợt lũ quét xảy ra năm 2010. **Lũ quét** là một loại lũ có tốc độ mực nước lên rất nhanh khi một khối lượng nước khổng lồ di chuyển nhanh từ
Đợt **lũ lụt miền Trung Việt Nam tháng 11 năm 1999** (hay còn được biết đến với tên gọi là **Đại hồng thủy 1999**) là một đợt lũ lụt lớn xảy ra ở các tỉnh
phải|nhỏ|287x287px| Một [[đập nước được xây dựng trên sông Humber (Ontario) để ngăn chặn sự tái diễn của trận lụt thảm khóc tại đây.]] Các phương pháp **kiểm soát lũ lụt** được sử dụng để
Đây là bài viết liệt kê các Lữ đoàn _Auxilia_ Đế quốc La Mã tồn tại trong thế kỷ thứ hai CN (là niên đại có nhiều tư liệu thuyết phục nhất). Các Lữ đoàn
**Lư Huề** (, ? - 8 tháng 1 năm 881), tên tự **Tử Thăng** (子升), là một quan lại triều Đường, đã hai lần giữ chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường
**Lư Quán** (chữ Hán: 盧绾; 256 TCN – 194 TCN) là tướng khai quốc nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia giúp Lưu Bang chống nhà Tần và tiêu diệt nước Tây
**Song Kim** (14 tháng 4 năm 1913 – 23 tháng 11 năm 2008) là một diễn viên sân khấu Việt Nam. Bà là một trong những nữ diễn viên kịch nói đầu tiên ở Việt
**Trận Ardennes**, còn gọi là **các trận Longwy và Neufchateau**, diễn ra từ ngày 21 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1914, trong chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp giữa quân đội Đức với
**Lũ lụt Thái Lan 2011** là đợt lũ lụt lớn xảy ra trong mùa mưa năm 2011 tại Thái Lan, nghiêm trọng nhất ở sông Chao Phraya cũng như ở lưu vực sông Mekong. Bắt
Nước hồng sâm 6 năm Pocheon 10 ml * 30 gói – Món quà quý giá cho sức khỏeCuộc sống hiện đại năng động và con người phải hoạt động không ngừng nghỉ để nâng
thumb|Các tỉnh của Trung Quốc bị ảnh hưởng của lũ lụt Từ cuối tháng 5 năm 2020, mưa lớn theo mùa bắt đầu gây ra lũ lụt ở Trung Quốc đại lục. Trong tháng 6,
Nước hồng sâm 6 năm Pocheon 10 ml * 30 gói – Món quà quý giá cho sức khỏeCuộc sống hiện đại năng động và con người phải hoạt động không ngừng nghỉ để nâng
**Lũ lụt ở Tây Âu 2021** là một loạt các trận lũ lụt nghiêm trọng, bắt đầu từ ngày 14 tháng 7 năm 2021. Chúng đã ảnh hưởng đến một số lưu vực sông, phần
**Lư Sơn** (, Cám ngữ: Lu-san), còn được biết đến là **Khuông Lư** (匡庐) trong thời cổ đại, là một dãy núi nằm ở phía bắc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, gần hồ Bà Dương.
**Lư Thực** (chữ Hán: 卢植, ? – 192), tên tự là **Tử Cán**, người huyện Trác, quận Trác (thuộc U châu), là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà giáo dục, học giả Kinh học
**Mưa lớn trên Bán đảo Triều Tiên mùa hè năm 2023** (Tiếng Hàn: 2023년 여름 한반도 집중호우) là đợt mưa xối xả trên Bán đảo Triều Tiên kéo dài từ tháng 6 năm 2023 đến
VÀNG BẠCH KIM - HOT TREND, THU HÚT MỌI ÁNH NHÌN , . ✨ Nếu bạn muốn lựa chọn một giải pháp tối ưu và an toàn nhất thì việc lựa chọn tông màu vàng
* Sữa Tắm Nước Hoa Tesori D'oriente Thanh Long Đỏ Dung Tích 500ml - Thơm Như Lời Đồn* Sữa Tắm Tesori D'oriente nổi tiếng với mùi hương sang trọng, tinh tế nhờ vào sự kết
Lũ lụt đang diễn ra ở Trung Âu bắt đầu sau nhiều ngày mưa lớn vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6 năm 2013. Ngập lụt và thiệt hại đã bị ảnh hưởng chủ
nhỏ|phải|Các quân nhân của Lữ đoàn Cơ giới số 93 nhỏ|phải|Đạn dược của Lữ đoàn Cơ giới số 93 nhỏ|phải|Trang bị cơ động của Lữ đoàn Cơ giới số 93 **Lữ đoàn Cơ giới số