✨Niệp quân

Niệp quân

Niệp quân () là những lực lượng vũ trang nông dân hoạt động tại các khu vực giáp ranh của 8 tỉnh An Huy - Hà Nam - Sơn Đông - Giang Tô - Hồ Bắc - Thiểm Tây - Sơn Tây - Hà Bắc ở phía bắc Trường Giang, chống lại chính quyền nhà Thanh trong khoảng thời gian 1851 - 1868. Mặc dù không lật đổ được triều đại nhà Thanh, nhưng cuộc nổi dậy đã gây ra những thiệt hại to lớn về cả kinh tế lẫn nhân mạng, những nhân tố lâu dài dẫn đến sự sụp đổ nhà Thanh vào đầu thế kỷ 20.

Sự hình thành

Niệp hay Niệm là phương ngữ Hoài Bắc, được hiểu là "một bọn" hay "một nhóm". Niệp đảng được thành lập vào cuối những năm 1840 bởi Trương Nhạc Hành và đến năm 1851 số lượng người gia nhập đã lên đến 400 ngàn người. Không giống như Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, Niệp đảng ban đầu không có mục tiêu và định hướng hoạt động rõ ràng, ngoại trừ đem đến những lời chỉ trích cho triều đình nhà Thanh. Khẩu hiệu của họ là "cướp của người giàu chia cho người nghèo". Tuy nhiên, sau một loạt thảm họa môi trường và những năm mất mùa liên tiếp, những người trong Niệp đảng bắt đầu bị kích động chống lại chế độ, nên quan lại nhà Thanh mới gọi là giặc Niệp (捻匪, Niệp phỉ).

Lũ sông Hoàng Hà năm 1851 đã gây ngập lụt hàng ngàn dặm vuông, gây thiệt hại to lớn cho cuộc sống của người dân. Chính quyền nhà Thanh bắt tay vào xử lý hậu quả sau thiên tai nhưng sự cứu trợ người dân lại không đạt hiệu quả bởi sự cạn kiệt tài chính sau Cuộc chiến tranh nha phiến với Đế quốc Anh xảy cách đó không lâu và đợt tàn sát đang diễn ra của Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc. Thiệt hại từ đợt lũ lụt này chưa kịp khắc phục xong thì đập sông Hoàng Hà tiếp tục bị vỡ vào năm 1855, nhấn chìm hàng ngàn người và tàn phá tỉnh Giang Tô màu mỡ. Cùng với sự tàn phá do lũ lụt gây ra chính là nạn đói ngày một lan rộng. Thời điểm đó, triều đình nhà Thanh đang phải dốc toàn lực đàm phán với các cường quốc châu Âu, tài chính lại cạn kiệt nghiêm trọng, tiếp tục không thể cứu trợ thiên tai hiệu quả. Điều này khiến cho Niệp quân tức giận, họ đổ lỗi cho người châu Âu đã góp phần vào những rắc rối của quốc gia, và ngày càng coi chính quyền nhà Thanh là bất tài.

Những người nổi dậy trong Niệp quân dường như bị ảnh hưởng bởi Khởi nghĩa Bạch Liên giáo trước đó, họ tuyển mộ người từ các hội và giáo phái bí mật như Bạch Liên giáo, lại tích cực sử dụng những biểu tượng, biểu ngữ của Bạch Liên giáo như Anh em kết nghĩa, Cờ ngũ hành, cờ bát quái và sử dụng rộng rãi các tổ chức nữ chiến binh. Trương Nhạc Hành đã tự xưng là "Đại Hán Vĩnh vương" hay "Đại Hán Minh Mệnh vương", gợi nhớ đến vị trí lãnh đạo của Bạch Liên giáo.

Một số nhà nghiên cứu như Valerie Hudson và Andrea den Boer cho rằng, sự khốn khó về kinh tế liên quan đến lũ lụt hàng thập kỷ đã khiến cho số phụ nữ giảm sút mạnh, dẫn đến số lượng lớn thanh niên không thể cưới vợ, chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy cuộc nổi loạn này.

Niên biểu hoạt động

  • Năm 1851, Niệp đảng ở các nơi Nam Dương, Nam Triệu, huyện Đường (nay là Đường Hà) thuộc nam bộ Hà Nam tụ chúng khởi nghĩa.
  • Năm 1852, bắc bộ An Huy gặp hạn hán lớn, nông dân kéo nhau gia nhập Niệp. Người Bạc Châu là bọn Trương Nhạc Hành (hay Trương Lạc Hành), Cung Đắc Thụ tụ tập hơn vạn Niệp tử đánh chiếm Vĩnh Thành, Hà Nam. Tháng 11 cùng năm, Niệp quân ở Mông Thành, An Huy uống máu ăn thề, đưa Trương Nhạc Hành làm minh chủ, nổi dậy kháng Thanh, gọi là Thập Bát Phố tụ nghĩa.
  • Năm 1853, vào lúc quân Bắc phạt của Thái Bình Thiên Quốc đi qua An Huy, Hà Nam, Niệp đảng ở bắc bộ An Huy nhao nhao hưởng ứng, dân đói khắp nơi nổi dậy, mỗi năm hai mùa xuân thu tụ tập ra ngoài cướp bóc lương thực.
  • Năm 1855, Hoàng Hà vỡ đê, một lượng lớn nạn dân mất nhà cửa của Sơn Đông, bắc bộ An Huy, bắc bộ Giang Tô (Khai Phong về phía đông) nối nhau gia nhập Niệp. Niệp đảng ở Bạc Châu, Mông Thành đưa Trương Nhạc Hành lên làm minh chủ, hiệu là Đại Hán Vĩnh vương (còn gọi là Đại Hán Minh Mạng vương), lấy Trĩ Hà tập (nay là Qua Dương, An Huy) làm căn cứ địa; đặt ra 19 điều Hành quân điều lệ, tổ chức thành Niệp quân, bày ra Ngũ kỳ quân chế: vàng, trắng, chàm, đen, đỏ, đạt đến mấy chục vạn người, là cao điểm của phong trào. Nam - bắc sông Hoài, khắp nơi đều có Niệp quân.
  • Năm 1856, Trương Nhạc Hành chiếm lĩnh vị trí xung yếu của giao thông thủy lục là Tam Hà Tiêm thuộc Dĩnh Châu, tiếp nhận phong hiệu của Thiên vương Hồng Tú Toàn, dù thực tế là nghe phong không nghe lệnh, nhưng vẫn hợp tác chặt chẽ với Trần Ngọc Thành.
  • Năm 1858 đến 1862, Niệp quân chuyển sang chiến đấu ở các nơi Hà Nam, Sơn Đông, An Huy, Giang Tô, có thắng có thua, Trương Nhạc Hành được thăng làm Chinh bắc chủ tướng, phong là Ốc vương.
  • Năm 1860, Niệp quân vì muốn cướp lương thực của kho thóc bộ Hộ, đánh phá Thanh Giang Phố (nay là khu Chủ Thành, thành phố Hoài An, Giang Tô), trọng trấn thương nghiệp ven Kinh Hàng Đại Vận Hà, bắc bộ Giang Tô, cũng là nơi đặt trị sở của Nam hà tổng đốc , rồi thiêu hủy hơn 20 dặm phố xá của nơi này, cháy lan đến kho thóc bộ Hộ và 4 xưởng đóng tàu của bộ Công. Nhưng không thể công phá nổi phủ thành Hoài An (nay là khu Sở Châu, thành phố Hoài An, Giang Tô), trị sở của Tào vận tổng đốc cách đó 15 km vì tường thành cao lớn và kiên cố. Cùng năm Niệp quân đánh hạ các thành thị chủ yếu như Khai Phong và Tế Ninh.
  • Năm 1861, Niệp quân hoạt động rất mạnh mẽ, đánh phá Lão Hà Khẩu và Tương Dương, Phàn Thành của Hồ Bắc. Một nhánh Niệp quân tiến vào Sơn Đông, áp sát Tế Nam và Yên Đài, bị quân Anh, Pháp đẩy lui.
  • Năm 1863, Tăng Cách Lâm Thấm đánh hạ Trĩ Hà Tập, Bạc Châu (nay là huyện thành của Qua Dương, An Huy), Trương Nhạc Hành bị bắt.
  • Năm 1864, Thái Bình Thiên Quốc diệt vong, Tuân vương Lại Văn Quang và bọn Lương vương Trương Tông Vũ tổ chức lại Niệp quân. Lại Văn Quang chính thức cho tướng lĩnh dưới quyền trong Niệp quân nhận các vương hiệu của Thái Bình Thiên Quốc. Niệp quân mới áp dụng chiến thuật linh hoạt cơ động, dần phát triển lên đến hơn 10 vạn bộ kỵ.
  • Ngày 18 tháng 5 năm 1865, Niệp quân tại Tào Châu, Sơn Đông (nay là huyện Tào, Hà Trạch, Sơn Đông) tiêu diệt toàn bộ đội quân bộ kỵ chủ lực của tướng nhà Thanh là Tăng Cách Lâm Thấm đuổi nà không tha, giết Tăng Cách Lâm Thấm. Hoa Bắc chấn động, Bắc Kinh giới nghiêm. Nhà Thanh lệnh cho Tằng Quốc Phiên tiễu Niệp. Tằng thay biện pháp đuổi đánh bằng biện pháp ngăn diệt, ở Chu Gia Khẩu, Hà Nam (nay là khu Xuyên Hối, thành phố Chu Khẩu, Hà Nam) - Tế Ninh, Sơn Đông - Từ Châu, Giang Tô - Lâm Hoài quan, An Huy (nay là trấn Lâm Hoài, huyện Phượng Dương, thành phố Trừ Châu, An Huy) đặt làm 4 trấn, đóng 8 vạn Hoài quân và Tương quân, bao vây Niệp quân trong vùng giáp ranh của Giang Tô, Hồ Nam, An Huy. Ngoài ra còn xây dựng xóm, trại tại căn cứ địa của Niệp quân ở Hoài Bắc, thanh tra hộ khẩu, thực hiện phép Bảo Giáp Liên Tọa . Nhưng Niệp quân đột phá vòng vây của Tương quân, Hoài quân, tiến vào Hồ Bắc. Sau đó đột phá phòng tuyến sông Giả Lỗ nằm giữa khoảng Khai Phong, Chu Tiên trấn (tây nam Khai Phong) chạy đến Sơn Đông. Tằng Quốc Phiên bị rút chức Khâm sai đại thần, Lý Hồng Chương kế nhiệm.
  • Tháng 10 năm 1866, Niệp quân chia làm 2 bộ đông - tây, Đông do Lại Văn Quang soái lĩnh, Tây do Trương Tông Vũ soái lĩnh tiến vào Thiểm Tây.
  • Năm 1867, Đông Niệp bị Hoài quân của Lý Hồng Chương vây khốn, đột vây thất bại; tháng 11, Nhiệm Trụ trong lúc giao chiến với Lưu Minh Truyền bị bộ hạ làm phản sát hại, mất đi chủ lực; quân Tây Niệp tiến xuống phía đông cứu viện.
  • Tháng giêng năm 1868, toàn quân Đông Niệp tại sông Giao Lai, Sơn Đông bị tiêu diệt, Lại Văn Quang bị bắt giết; Tây Niệp tiến vào Thiểm Tây, phối hợp dân quân Hồi tộc tác chiến, sau vì cứu viện quân Đông Niệp, đã từng áp sát Bảo Định, Thiên Tân. Tháng 8, Tây Niệp bị Hoài quân vây khốn tại tây bắc bộ Sơn Đông, gặp trời mưa lớn liên tiếp nhiều ngày, kỵ binh không thể dùng được, khiến cho toàn quân tan rã thất bại, Trương Tông Vũ trên đường bỏ trốn thì mất tích. Đến đây cuộc khởi nghĩa Niệp quân đành cáo chung.

Lãnh tụ

  • Trương Nhạc Hành (? – 1863), bị bắt giết.
  • Trương Tông Vũ (? - ?), mất tích.
  • Lại Văn Quang (1827 – 1868), bị bắt giết.
  • Hầu Sĩ Duy (? – 1858), bị nội bộ sát hại.
  • Cung Đắc Thụ (? – 1861), tử trận.
  • Tôn Quỳ Tâm (? – 1861), bị bộ hạ sát hại.
  • Tô Thiên Phúc (? – 1863), tử trận.
  • Nhiệm Trụ (? – 1867), bị bộ hạ sát hại.
  • Trương Vũ Tước (?-1868), tử trận.
  • Lý Uẩn Thái (? – 1868), đầu hàng nhà Thanh nhưng vẫn bị giết.

Trận đánh tiêu biểu

  • Trận Cao Lâu trại
  • Trận Vĩnh Thành
  • Trận Doãn Long hà
  • Trận Bá Kiều
  • Trận Nhiêu Dương
  • Trận Trĩ Hà tập

Ý nghĩa lịch sử

Phong trào khởi nghĩa Niệp quân kéo dài 18 năm, trải rộng 8 tỉnh, tiêu diệt hơn 10 vạn quân Thanh và đoàn luyện địa phương, phối hợp với Thái Bình Thiên Quốc và khởi nghĩa nông dân các nơi của phương bắc, đả kích nặng nề chính quyền nhà Thanh.

Niệp quân chiến đấu kháng Thanh trong một thời gian dài, hình thành một dạng chiến thuật lưu động, thường có thể khắc chế kẻ địch mà giành chiến thắng. Nhưng lãnh đạo Niệp quân về chính trị có tầm nhìn nhỏ hẹp, không thể lãnh đạo và chỉ huy một cách thống nhất tập trung; về quân sự thì thực hiện Lưu khấu chủ nghĩa (Lưu: lưu động, khấu: giặc cướp), sao nhãng việc xây dựng và củng cố căn cứ địa, sau đó lại đem quân lực chia làm hai, chỉ đạo tác chiến manh động, dẫn đến bị quân Thanh dễ dàng đánh phá, tiêu diệt toàn quân.

Thư mục

  • Chu Thế Trừng, Hoài quân bình Niệp ký
  • Quách Đình Dĩ, Cận đại Trung Quốc sử cương
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Niệp quân** () là những lực lượng vũ trang nông dân hoạt động tại các khu vực giáp ranh của 8 tỉnh An Huy - Hà Nam - Sơn Đông - Giang Tô - Hồ
thumb|Một số thành viên của Thường Thắng Quân **Thường Thắng Quân** (tiếng Trung Quốc: 常勝軍, bính âm: _Cháng Shèng jūn_; phiên âm Wade-Giles: _Ch'ang Sheng Chün_) là một đội quân đánh thuê của triều đình
**Trương Tông Vũ** (chữ Hán: 张宗禹, bính âm: Zhāng Zōng Yǔ), không rõ năm sinh năm mất, ước đoán được sinh ra vào khoảng cuối đời Gia Khánh – đầu đời Đạo Quang, nhà Thanh
**Lại Văn Quang** (chữ Hán: 赖文光, 1827 – 1868), dân tộc Khách Gia, tướng lãnh Thái Bình Thiên Quốc, từng tham gia khởi nghĩa Kim Điền vào buổi đầu của phong trào, được phong **Tuân
**Lưu Minh Truyền** (, 07 tháng 09 năm 1836 – 12 tháng 01 năm 1896), còn đọc là **Lưu Minh Truyện**, tên tự là **Tỉnh Tam** (省三), hiệu là **Đại Tiềm Sơn Nhân**, người Tây
**Trương Nhạc Hành** (chữ Hán: 张乐行, 1811 – 28/2 ÂL tức 5/4/1863), còn có tên là **Lạc Hành** (洛行), tên lúc nhỏ là Hương Nhi, xước hiệu là Lão Nhạc, người thôn Trương Lão Gia,
**Trương Vũ Tước** (chữ Hán: 张禹爵, ? – 1868), người thôn Trương Lão Gia, Bạc Châu, tỉnh An Huy , tên gốc là Trương Ngũ Hài, tướng lãnh giai đoạn hậu kỳ của phong trào
thumb|250x250px|Các binh sĩ Võ Vệ hữu quân thuộc quyền [[Viên Thế Khải đang hộ tống Thái hậu Từ Hy hồi cung năm 1902]] **Võ Vệ quân** () là lực lượng quân sự hiện đại đầu
**Anh Hàn** (chữ Hán: 英翰, ? – 1876), tự **Tây Lâm** (西林), thị tộc Tát Nhĩ Đồ, dân tộc Mông Cổ, người Mãn Châu Chính Hồng kỳ, quan viên, tướng lãnh nhà Thanh, có công
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Phan Đỉnh Tân** (; 1828-1888), tự **Cầm Hiên** (琴轩), là một nhân vật chính trị, quân sự thời nhà Thanh. Phan chính là người chỉ huy quân Thanh đánh bại quân Pháp tại trận Lạng
**Nghĩa dũng quân tiến hành khúc** () là quốc ca của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được nhà thơ và soạn giả ca kịch Điền Hán viết lời và Niếp Nhĩ phổ nhạc
**Lương Thành Phú** (; khoảng 1820 - 26 tháng 6,1865), sinh tại Quảng Tây, là một tướng lĩnh quan trọng của Thái Bình Thiên Quốc, sau được phong làm _Khải vương_. ## Tiểu sử **Lương
**Hà Cảnh** (chữ Hán: 何璟, ? – 1888), tự **Tiểu Tống**, người Hương Sơn, Quảng Đông , quan viên cuối đời Thanh. Trong chiến tranh Pháp – Thanh, ông đang ở chức Mân Chiết tổng
**Tăng Cách Lâm Thấm** (chữ Hán: 僧格林沁, ,; 24 tháng 7 năm 1811 - 18 tháng 5 năm 1865), quý tộc Mông Cổ, người Khoa Nhĩ Thấm Tả Dực Hậu kỳ , thị tộc Bác
**Đỗ Hồng** (杜洪, ? - 905) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường. Ông kiểm soát Vũ Xương từ năm 886 đến năm 905. Năm 905, ông chiến bại trước Dương Hành Mật,
**Thanh Văn Tông** (chữ Hán: 清文宗; 17 tháng 7 năm 1831 – 22 tháng 8 năm 1861), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 9 của triều đại
**Nguyễn Cảnh Chân** (chữ Hán: 阮景真; 1355 - 1409) là danh tướng chống quân Minh thời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông có nguồn gốc từ Đông Triều, Quảng Ninh trước khi về
**Nguyễn Điền Phu** (chữ Hán: 阮佃夫, 427 – 477), người Chư Kỵ, Hội Kê (nay là Chư Kỵ, Chiết Giang), tướng lĩnh, gian thần nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Tiền
**Trần Đắc Tài** (chữ Hán: 陳得才, ? – 1864), còn có tên là Trần Đức Tài, người huyện Đằng, Quảng Tây, tướng lãnh Thái Bình Thiên Quốc, được phong Phù vương. ## Tham gia khởi
**Thọ Tịch Chi** (, ? - 471), người quận Ngô Hưng (nay thuộc Chiết Giang), là quan nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Ông vốn là Chủ y trong cung.
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
**An Huy** (, IPA:_ánxwéi_) là một tỉnh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2020, An Huy là tỉnh đông thứ tám về số dân, đứng thứ 11 về kinh tế Trung Quốc với
Tĩnh vương **Lý Khai Phương** (, ? – 1855), người Vũ Duyên (nay là Vũ Minh), Quảng Tây, có thuyết là Úc Lâm Châu, Quảng Tây , dân tộc Tráng, tướng lĩnh Thái Bình Thiên
**Tiêu Hồng** (, 1911 - 1942) là bút hiệu của một nữ văn sĩ Trung Hoa và Hồng Kông. ## Lịch sử ### Cáp Nhĩ Tân (1911 - 1931) Tiêu Hồng có những bút hiệu
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
Cầu vương **Lâm Phượng Tường** (, 1825 -1855), tướng lĩnh Thái Bình Thiên Quốc. Ông xuất thân nông dân, người Vũ Duyên (nay là Vũ Minh), Quảng Tây, các thuyết khác là Quế Bình, Quảng
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
**Lữ Văn Đức** (chữ Hán: 吕文德 hay 徳, ? – 1269), xước hiệu là _Hắc hôi đoàn_ (nắm tro đen), người huyện An Phong, Túc Châu , là tướng lĩnh kháng Mông cuối đời Nam
**Lại** (chữ Hán: 賴) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam và Trung Quốc và Đầu Đen (chữ Hán: 赖, Bính âm: Lai). Về mức độ phổ biến
**Nguyệt Thượng Trùng Hỏa** (tiếng Trung: 月上重火, bính âm: _Yuè Shàng Zhòng Huǒ_, ) được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Quân Tử Dĩ Trạch. Bộ phim kể về con gái
**_Phong vân nhi nữ_** là một bộ phim yêu nước nổi tiếng nhất của điện ảnh Trung Quốc năm 1935. Bài hát chủ đề của bộ phim là _"Nghĩa dũng quân tiến hành khúc"_, sau
**Thang Cổ Đại** (, chữ Hán: 湯古代, 24 tháng 12 năm 1585 - 3 tháng 11 năm 1640), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử và nhà quân sự thời kỳ đầu nhà Thanh. ##
**Nam Can** (, bính âm: Nán'gān Xiāng; latinh hóa phương ngữ Phúc Châu: Nàng – găng – hiŏng) là một hương của huyện đảo Liên Giang (quần đảo Mã Tổ), tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa
**Vương Phủ (王黼)** (Năm 1079~năm 1126), tự **Thương Minh(將明)**, quê ở Tường Phù ở Khai Phong (nay là Khai Phong, Hà Nam ) thời Bắc Tống, một nhân vật chính trị cuối thời Bắc Tống,
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
Họ **Đồng (同)** là một họ của người Việt Nam. Biểu tượng của dòng họ Đồng tại Việt Nam ## Nguồn gốc họ Đồng Việt Nam Các triều đại phong kiến ở Việt Nam có
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
nhỏ|trương Thông thời nhà Minh ở Trung Quốc **Trương Thông** (chữ Hán: 张璁; 1475 – 1539), tự **Bỉnh Dụng**, người huyện Vĩnh Gia, phủ Ôn Châu, Thừa Tuyên Bố chánh sứ tư Chiết Giang ,
**Cựu Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 旧五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Tiết Cư Chính thời Bắc Tống viết
**Mã Tân Di** (, 1821 - 1870), tự **Cốc Sơn** (穀山), hiệu **Yến Môn** (燕門), **Thiết Phảng** (鐵舫), tên khác là **Thượng Khanh Cư** (尚卿居), là một đại thần nổi tiếng cuối thời nhà Thanh.
**Kim sử** (chữ Hán: 金史) là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), do Thoát Thoát biên soạn năm 1345. Tổng cộng có 135 quyển
**Nhiếp** hay **Niếp** là một họ của người Trung Quốc (Hán tự phồn thể: 聶, Hán tự giản thể: 聂, phanh âm: Niè). Phiên âm Hán Việt đúng của chữ 聶 (聂) là **Niếp** nhưng
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
**Hoàn Nhan Lượng** (chữ Hán: 完顏亮, 24 tháng 2 năm 1122 - 15 tháng 12 năm 1161), tên Nữ Chân là **Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi** (完顏迪古乃), tên tự **Nguyên Công** (元功), thụy hiệu là
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Lý Tục Tân** (chữ Hán: 李续宾, 1818 – 1858), tự **Địch Am**, người Tương Hương, Hồ Nam, tướng lãnh Tương quân nhà Thanh. Ông nổi danh là một viên kiêu tướng, đã dành trọn sự