✨Hoàn Nhan Lượng
Hoàn Nhan Lượng (chữ Hán: 完顏亮, 24 tháng 2 năm 1122 - 15 tháng 12 năm 1161), tên Nữ Chân là Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi (完顏迪古乃), tên tự Nguyên Công (元功), thụy hiệu là Kim Phế Đế (金废帝) hay Hải Lăng Dạng vương (海陵煬王), thường gọi là Kim Hải Lăng vương (金海陵王), là vị quốc chủ thứ tư của triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc. Hoàn Nhan Lượng nổi tiếng là kẻ phong lưu.
Thân thế
Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi là con trai thứ hai của Liêu vương Hoàn Nhan Tông Cán, còn gọi là Oát Bản, mẹ ông là Đại thị, Tuy nhiên mấy ngày sau ông lại được đổi làm Tả thừa tướng, quyền lực lớn hơn trước nhưng sau đó ông lại bị đổi phong làm Thái bảo, Lĩnh tam tỉnh sự. Ông tiếp tục lấy thân phận con cháu hoàng gia mà chiêu hiền đãi sĩ khắp nơi, mưu đồ việc lớn, Kim chủ chẳng hề hay biết. Lúc này trong cung điện của nước Kim xảy ra nhiều chuyện, từ việc xuất hiện dị tượng trên bầu trời (thái bạch phạm vào mặt trăng), rồi trong kinh sư có mưu to gió lớn, bỗng lửa từ đâu lan tới tẩm điện của Kim chủ, Kim chủ phải lánh sang điện khác. Mấy hôm sau lại thấy cảnh rồng đấu nhau ở thượng lưu Hà Thủy, Lợi châu, rồi gió lớn phá hoại nhà cửa dân chúng, quan xá làm nhiều người mất nhà, số bị chết lên tới 100. Thái sử nước Kim cho đó là những điềm bất lợi cho quân chủ, sẽ có đại thần tác loạn. Tháng 11 ÂL, Kim chủ triệu người vợ của Tạc vương Nguyên là Tản Mão vào cung ngày đêm sủng ái, lại giết cả Đức phi Ô Khố Lý thị, Qua Nhĩ Giai thị, Trương thị... Nhân lúc cung trung rối loạn, Hoàn Nhan Lượng bắt đầu kế hoạch của mình. Ông liên kết với Bộc Tán Hốt Thổ, A Lý Xuất Hổ, nội thị Đại Hưng Quốc và Thượng thư tỉnh lệnh sử Lý Lão tăng làm nội ứng mình. Đêm ngày Đinh Tị (9 tháng 1) năm 1150, tức Kim Hoằng Thống năm thứ 9, Tống Thiệu Hưng năm 19, Bộc Tán Hốt Thổ, A Lý Xuất Hổ ở trong cung, Hoàn Nhan Lượng cùng em rể là Đồ Đan Trinh, Bỉnh Đức, Ô Đạt... hội hợp trong nhà Đường Cổ Biện. Hưng Quốc làm chìa khóa, giả chiếu lệnh của Kim chủ triệu Đường Cổ Biện. Vệ sĩ cho rằng Đường Cổ Biện là con rể của Kim chủ nên không nghi ngờ. Bọn Lượng vì thế theo chân Đường Cổ Biện tiến vào cung, dùng chìa khóa mở cửa tẩm cung. Khi đến điện môn, vệ sĩ phát hiện có điều mờ ám nhưng lại bị Đường Cổ Biện dọa nạt chẳng dám làm gì. Khi họ tới tẩm điện, Kim chủ nghe tiếng bước châ mới biết là có biến, bèn định bỏ chạy. Hoàn Nhan Lượng cùng tất cả tùy tùng đem đao xông vào. Vua Kim vội vã tìm đao chống lại, nhưng không thấy đâu (vì Đại Hưng Quốc đã giấu đi). Ngạch Liệt Sở Khắc tiến lên trước, rồi Tư Cung cũng xông vào chém vua Kim ngã lăn xuống đất. Lượng đích thân bồi thêm vài nhát thì Hi Tông mới chết hẳn. Giết xong vua Kim, Hoàn Nhan Lượng và chúng tướng ra khỏi cung, vào đại sảnh. Rồi ông giả lệnh vua Kim muốn lập hoàng hậu mà triệu chư vương đại thần đến. Tào Quốc vương Hoàn Nhan Tông Mẫn nghe tin không muốn đi nhưng rốt cục thì cũng vào cung. Vừa đến nơi thì Kim chủ Lượng đã sai Tư Cung giết chết. Tả thừa tướng Hoàn Nhan Tông Hiền cũng bị giết luôn, còn Tham tri chính sự Tiêu Tứ bị phế và bị cấm cố. Rồi sau đó Kim chủ giết tiếp hơn 50 người trong tông thất.
Mấy hôm sau, có chiếu phong Tiêu Ngọc làm Lễ bộ thượng thư, Tiêu Dụ làm Thượng thư tả thừa, Ô Đạt làm Tư không, Tả thừa tướng kiêm Thị trung; Hoàn Nhan Tông Nghĩa, Ôn Đô Tư Trung là Bình chương chính sự, Lưu Lân là Thượng thư hữu thừa, Bộc Tán Hốt Thổ làm Điện tiền đô điểm kiểm. Đồ Đan thái hậu biết việc cũng không vui; nên khi Kim chủ dời đô thái hậu không theo về Yên Kinh, vẫn ở phủ Hội Ninh. Tháng 4 ÂL năm 1153, mẹ đẻ Kim chủ là Đại thái hậu bệnh nặng, trước lúc mất yêu cầu Kim chủ đón thái hậu về, sau đó thì nhắm mắt xuôi tay. Ban đầu ông không nghe. Kim chủ vốn nghi ngờ người em là Cổn có danh tiếng, đến đó lại nghe được Cổn bàn về việc thiên mệnh, nên tức giậm, triệu Cổn vào kinh, không tra xét mà xử trảm tại chỗ. Sau đó Tả thừa tướng Ôn Đô Tư Cung xin trí sĩ, Kim chủ Lượng lại phong Xu mật sứ Hoàn Nhan Ngang là Tả thừa tướng, Đồ Đan Cung là Thái sư, Lĩnh tam tỉnh sự, không lâu sau ông này qua đời. Kim chủ lại lấy người thím của mình, tức vợ của A Lỗ Bố (Hoàn Nhan Tông Mẫn) là A Lại, phong làm Chiêu phi. Ông gia phong cho thái sư Ôn Đô Tư Trung lên làm Thượng thư lệnh, Thái úy và Hữu thừa tướng Bộc Tán Tư Cung làm Thái úy, Xu mật sứ, còn tả, hữu thừa là Lưu Ngạc và Tiêu Di bị bãi chức. Thái Tùng Niên được phong Thượng thư hữu thừa, Tiêu Ngọc làm Hữu thừa tướng, lại bãi chức Bình chương chính sự của Trương Huy và không cử người thay thế. Tháng 2 ÂL, Kim chủ cải niên hiệu thành Chính Long, đại xá thiên hạ. Ông ngự ở Tuyên Hoa môn nghênh Đức Phật, hạ lệnh ban cho các chùa 500 quyển kinh, 50 đoạn thải, 500 gian tiền. Ngày Tân Hợi tháng 5 ÂL, Tu dung An thị do tác loạn trong cung nên bị giết chết.
Đầu năm 1157, Kim chủ Lượng dùng Công bộ thị lang Hàn Tích làm Đồng tri Tuyên Huy viện sứ, Tích không bái tạ khiến Kim chủ tức giận, lệnh đánh 120 trượng và đoạt lại quan tước. Không lâu sau ông tuyên chiếu phế truất Kim Huy Tông Cảnh Tuyên hoàng đế Hoàn Nhan Tông Tuấn (phụ thân Kim Hi Tông) làm Liêu vương Trương Hạo cũng tỏ ra không mấy đồng tình với việc này nhưng bề ngoài vẫn nói với Kim chủ rằng trời đã muốn diệt Triệu thị, Kim chủ rất hài lòng. Việc xây cung thất này cực kì tốn kém, chi phí vận chuyển gỗ lên tới 2000 vạn, một xe phải dùng tới 500 người vận chuyển. Chi phí xây mỗi cung điện phải lên tới hàng vạn. Chỗ nào Kim chủ không vừa ý phải phá đi xây lại khiến dân chúng ta thán. Sang năm 1159, Kim chủ còn trùng tu thành quách ở Trung Kinh và xây chiến thuyền ở Thông châu, Sự việc tiết lộ bị phát giác, Kim chủ cho đánh Da Luật Dực Nam 100 roi vì tội đi sứ làm nhục quốc thể và phanh thây Sử Nghi Sinh. Trong năm này ở Kim, Trương Vượng, Từ Nguyên làm phản ở Đông Hải, Kim chủ sai Từ Văn, Trương Hoành Tín đem quân thảo phạt, đánh dẹp được. Cùng năm này Ôn Đô Tư Trung qua đời.
Kim chủ Lượng sai Lương Cầu, Tiêu Đức Ôn tuyển mộ lính tráng từ các bộ tộc Hề, Khiết Đan, không giới hạn bao nhiêu người; lại trưng binh ở mười một một, tạo vũ khí, quân dụng... Việc chuẩn bị ngày một khẩn trương. Đầu năm 1161, Kim chủ rời khỏi Trung Đô, chuẩn bị tới Biện Kinh, đến tháng 7 năm đó thì chính thức dời đô về Biện. Tháng 4 ÂL ông cử Xu mật sứ Cao Cảnh Sơn cùng Hữu tư viên ngoại lang Vương Toàn đi sứ nước Tống nhân tiết Thiên Trung. Trước lúc đi ông dặn hai người :Khi gặp Tống chủ, khanh trách cứ ông ta mua ngựa ở vùng biên, tụ tập binh lính là có ý khác. Nếu muốn hòa hảo phải cắt Hán, Hoài dâng cho Kim.
Nhưng triều đình nhà Tống lấy lý do Thiên Thủy quận công Triệu Hoàn (tức Tống Khâm Tông) đã qua đời mà hoãn việc thương thuyết và chuẩn bị việc bố phòng, sứ Kim hết cách phải quay về. Tống Cao Tông hạ lệnh bố trí phòng bị gồm có Ngô Lân giữ Xuyên Thiểm, Lưu Kĩ phòng bị khu vực Giang - Hoài; Thành Mẫn phòng ngự ở trung du Trường Giang và Lý Bảo làm Duyện Hải chế trí sứ, soái 120 cỗ hải thuyền theo đường biển bắc tiến, tập kích thủy quân Kim. Tháng 7 ÂL Kim chủ dời đô tới Biện, bố trí Đồ Đan thái hậu ở cung Ninh Đức. Thái hậu sai thị tì Cao Phúc Nương đến hỏi việc dời đô, Kim chủ lén lút quan hệ với Cao Phúc Nương và sai làm nội gián, dò xét động tĩnh của Đồ Đan thái hậu. Cao Phúc Nương ra sức gièm pha bôi bác, nói thái hậu có ý phế lập, do đó hiềm khích giữa hai cung ngày một lớn.
Trong lúc này người Liêu ở phía bắc làm phản, giết chết Táo Hợp, lập cố di tộc nước Kim làm Chiêu thảo sứ, liên kế với Hoàn Nhan Ốc Trắc và Mục Côn Quát Lý phản Kim, quân lên tới mấy vạn. Kim chủ Lượng sai Bộc Tán Hốt Thổ dẫn 10000 quân đánh dẹp. Trong lúc đó tại triều, Trương Hạo được phong thái sứ, Tiêu Ngọc làm Thượng thư Tả thừa tướng, Bạch Ngạn Cung làm Xu mật phó sứ, Đồ Đan Cung làm Ngự sử đại phu... Rồi Kim chủ lại lùng bắt giết nhiều người trong họ Da Luật (Hoàng thất nước Liêu) cùng con cháu triều Bắc Tống hơn 130 người. Tháng 8 ÂL, Kim chủ giết thái hậu là Đồ Đan thị. Nghe tin, Lưu Kĩ đang bị bệnh cũng phải đưa quân từ Trấn Giang vượt sông tiến đến Dương Châu, phái binh lên bắc đến Bảo Ứng, Hu Dị, Hoài Âm, chuẩn bị phòng ngự Hoài Đông. Nhưng phụ trách Hoài Tây là Vương Quyền ở mãi Kiến Khang, dưới sự thúc giục của Lưu Kĩ, mới đi Hòa Châu; Lưu Kĩ lại nhiều lần hạ lệnh, mới đi Lư Châu. Đầu tháng 10 ÂL, Lưu Kĩ đến Hoài Âm, thì quân Kim theo đường Hoài Tây vượt sông Hoài. Vương Quyền không hề phòng bị, nghe tin lập tức bỏ Lư Châu chạy về Hòa Châu. Lưu Kĩ bất đắc dĩ lui về Dương Châu, trong khi quân Kim vượt Hoài Hà, áp sát Trường Giang. Triều đình nhà Tống hoảng sợ, Tống Cao Tông lại muốn chạy ra biển tránh địch, nhưng bị Trần Khang Bá phản đối. Giữa tháng 10, triều đình lấy Diệp Nghĩa Vấm và Ngu Doãn Văn đến Giang Hoài đốc thúc quân đội. Lúc này quân Kim đã chiếm Chân Châu, Vương Quyền từ Hòa Châu trốn về Thái Thạch. Tiếp đó Lưu Kĩ phải bỏ Dương Châu về Qua Châu. Quân Kim đánh tiếp Qua châu, Lưu Kĩ lại phải lui về Trấn Giang. Lúc này người Kim lần lượt chiếm được Lư châu, Trừ châu, Hòa châu, Tương Dương, Phàn Thành, Dương châu...áp sát Trường Giang, chuẩn bị vượt sông tiến thẳng Lâm An.
Trong khi quân Kim đang thắng thế ở miền nam thì ở miền bắc, một biến cố lớn đã xảy ra. Kim chủ Lượng vốn bị mất lòng người do quá tàn ác bạo ngược. Khi ông tiến quân về nam, các tướng Hoàn Nhan Phục Thọ, Hoàn Nhan Mưu Diễn cùng nhau ủng hộ Tào Quốc công, Đông Kinh lưu thủ Hoàn Nhan Ô Lộc. Ngày 7 tháng 10 ÂL, Ô Lộc chính thức đăng cơ ở Liêu Dương, tức là Kim Thế Tông, cải nguyên là Đại Định Kim chủ Ung sau đó đem quân đánh chiếm Yên Kinh, kể ra 16 tội lớn của Kim chủ Lượng, phế ông làm Hải Lăng vương.
Quân Kim chuẩn bị vượt Trường Giang ở Thái Thạch Kì. Bồ Lư Hồn ra sức can ngăn, Kim chủ không nghe. Thị vệ Lương Hán Thần thì tán đồng việc vượt sông ngay lập tức. Ngu Doãn Văn lập tức men sông bố trận. Quân Tống đều náu mình sau núi, Kim chủ nghĩ cho rằng Thái Thạch trống rỗng, đưa thủy quân Kim áp sát bờ nam, mới thấy đối phương bày trận để đợi, nhân dân Đương Đồ cổ vũ kéo dài mười mấy dặm không dứt. Lượng không còn cách nào khác, thúc quân tiến lên. Thủy quân Tống dùng phần lớn là thuyền lớn mà linh hoạt; trong khi thuyền của quân Kim nhỏ hơn, không sao địch nổi, bị đánh cho đại bại.
Lúc này nghe tin trong nước có nội biến, Kim chủ Lượng nói :Ta muốn sau khi diệt Tống thì cải nguyên là Đại Định, mà nay Ô Lộc lại dùng hai chữ đó, chẳng lẽ là ý trời.
Và muốn đưa quân trở về dẹp loạn, nhưng Lý Thông ra sức can ngăn và khuyến khích ông để các quân sĩ vượt sông, phá hết thuyền bè để dẹp đi ý định quay về của chúng. Kim chủ nghe theo, hôm sau lại cho tiến quân. Ngu Doãn Văn lại phái Tân Thịnh soái thủy quân chủ động tiến đánh Dương Lâm Khẩu ở bờ bắc Trường Giang. Về phần Kim chủ Lượng, ông nghĩ rằng quân Tống vừa thắng trận sẽ cho rằng quân Kim không dám đánh tiếp, nên có thể nhanh chóng vượt sông. Ai ngờ khi thuyền quân Kim rời khỏi bến, bị nỏ cứng của quân Tống bắn rát, lại bị pháo Tích lịch oanh kích, mất hơn 300 cỗ, một lần nữa chịu đại bại. Kim chủ phải cho lui quân về Hòa châu rồi Dương châu, lệnh giết chết Lương Hán Thần. Trong lúc này, Dương Tồn Trung giữ Trấn Giang cùng Ngu Doãn Văn duyệt binh trên Lâm Giang. Quân của Kim chủ Lượng vừa tới Qua châu, thấy thế cũng muốn vượt sông một lần nữa. Có viên tướng tâu rằng không nên, Kim chủ tức giận phạt vị tướng đó 50 trương rồi hạ lệnh cho quân sĩ nội trong ba ngày phải vượt sông, ai chậm trễ thì bị chém, lòng quân dao động. Kiêu kị Cao Tăng cùng thuộc hạ bỏ trốn, Kim chủ Lượng cho bắt chém rồi quy định quân sĩ trốn thì đầu mục chịu tội, đầu mục trốn thì tổng quản chịu tội. Thuyền bè được tập kết ở Qua châu để binh sĩ chuẩn bị vượt sông. Đến lúc này thì trong quân sinh biến. Chiết Tây đạo binh mã đô thống chế Da Luật Nguyên Nghi triệu tập chư tướng, bàn kế làm phản. Nguyên Nghi nói :Hiện nay tân thiên tử đăng cơ ở Liêu Dương, chi bằng ta cùng nhau mưu tính việc lớn rồi đưa quân về bắc, tội gì phải chết ở Giang Nam này.. Hoàn Nhan Lượng đăng cơ , tôn vị Hoàng thái hậu , qua đời truy phong Từ Hiến Hoàng hậu (慈憲皇后) , sau bị Thế Tông giáng làm Hải Lăng Thái phi (海陵太妃) rồi Liêu vương Phu nhân (遼王夫人).
- Thứ mẫu :
Lý thị (李氏) , Hoàn Nhan Lượng tôn vị Thuận phi (顺妃) , sau Thế Tông giáng làm Liêu vương Phu nhân (辽王夫人).
Tiêu thị (萧氏) , Hoàn Nhan Lượng tôn vị Ninh phi (宁妃) , sau Thế Tông giáng làm Liêu vương Phu nhân (辽王夫人).
Đồ Đan thị (徒单氏) , Hoàn Nhan Lượng tôn vị Văn phi (文妃) , sau Thế Tông giáng làm Liêu vương Phu nhân (辽王夫人).
- Huynh đệ :
Hoàn Nhan Sung (完顏充; ? - 1149) , tên thật Thần Thổ Muộn (神土懑) , mẹ là Lý thị. Từng nhậm Quang lộ đại phu , sau giữ chức Thái thú Biện Kinh , được phong tước Truy quốc công (淄国公) rồi Đại vương (代王) , qua đời truy phong Trịnh vương (郑王). Có một con trai là Hoàn Nhan Vĩnh Nguyên (完颜永元).
Hoàn Nhan Duyện (完顏兗; ? - 1153) , tên thật Ngô Đồng (梧桐) , mẹ không rõ. Nhậm chức đến Thái úy , đứng đầu Cơ mật viện , từng đi sứ đến Nam Tống , khi mất truy phong tước Vương.
Hoàn Nhan Vĩnh Khánh (完颜永庆) , mẹ là Đại thị. Từng nhậm Phụ quốc Tướng quân rồi Tư đồ , sau truy phong Vệ vương (卫王). Có một con trai là Hoàn Nhan Hòa Thượng (完颜和尚) bị xử tử do mưu loạn dưới thời Thế Tông.
Hoàn Nhan Cổn (完顏袞; 1122 - 1153) , mẹ không rõ. Từng nhậm Lễ bộ Thượng thư rồi Thái thú Tây Kinh (nay thuộc Đại Đồng). Cùng Hoàn Nhan Lượng bất hòa thuận , sau bị chính anh ruột xử tử.
- Tỷ muội :
Hoàn Nhan Địch Bát (完顏迪缽) , phong Liêu quốc Trưởng Công chúa (遼國長公主) , lấy Bồ Sát Á Hổ Điệt (蒲察阿虎迭) . Sau khi qua đời , Á Hổ Điệt lần lượt lấy hai đường muội Thôi Ca và Lượng Thư của công chúa làm kế thất.
Hoàn Nhan Thôi Ca (完顏崔哥) , phong Đằng quốc Trưởng Công chúa (鄧國長公主).
Hoàn Nhan Lượng Thư (完顏亮姐) , phong Khánh Nghi Công chúa (慶宜公主) , sinh một con trai là Việt quốc công Bồ Sát Đỉnh Thọ (蒲察鼎寿) kết hôn với Trịnh quốc Công chúa (con gái Kim Hi Tông) sinh ra Khâm Hoài Hoàng hậu , chính cung của Kim Chương Tông ; một con gái là Bồ Sát Xoa Cát.
Hoàn Nhan thị (? - 1182) , mẹ là Đại thị , phong Bình Dương Trưởng Công chúa (平阳长公主) , lấy Nghiễm Bình Quận vương Đồ Đan Trinh (徒单贞). Thế Tông tức vị , giáng làm Vĩnh Bình Huyện chúa (永平县主). Có với phò mã một con gái gả cho Hoàn Nhan Doãn Cung , sinh ra Kim Chương Tông. Năm 1182 , Đồ Đan Trinh do tham gia vào vụ mưu sát Kim Hy Tông nên bị xử tử , Huyện chúa chịu liên lụy nên cũng bị giết. Chương Tông lên ngôi , truy phong ngoại tổ mẫu làm Lương quốc Công chúa (梁国公主).
Hoàn Nhan thị , được phong Gia Tường Huyện chúa (嘉祥县主) , lấy Đồ Đan Khắc Trữ (徒单克宁).
- Hậu phi
Đồ Đan Hoàng hậu (徒單皇后; ? - 1170) , con gái Thái sư Đồ Đan Cung (徒单恭). Nguyên phối thê tử , xưng Đệ nhất Nương tử (第一娘子) , ban đầu phong Huệ phi (惠妃) sau thăng vị Hoàng hậu , sinh ngày 21 tháng 11. Hoàn Nhan Lượng bị giết , được Kim Thế Tông đưa về nhà mẹ ở Thượng Kinh.
Đại Nguyên phi (大元妃) , người Bột Hải , con gái Lương quốc công Đại Diệp (大㚖). Trắc phối đầu tiên , xưng Đệ nhị Nương tử (第二娘子) , được Hoàn Nhan Lượng sủng ái , sơ phong Quý phi (贵妃) , dần thăng Huệ phi (惠妃) , Xu phi (姝妃) rồi Nguyên phi (元妃) , sinh một con trai.
Nguyên phi Nại Lại Hốt (奈剌忽) , vốn là vợ của Trương Định An (张定安) - em họ bên ngoại của Đại Nguyên phi , nhập cung được phong Nguyên phi (元妃).
Quý phi Đường Quát Định Ca (唐括定哥; ? - 1154) , ban đầu là vợ của Từ vương Hoàn Nhan Ô Đái (完颜乌带). Tư thông với Hoàn Nhan Lượng , hạ độc giết chết Từ vương , được đưa vào cung , năm 1153 phong Quý phi (贵妃) , không lâu sau thì thất sủng. Có quan hệ đồng tính luyến ái với cung nữ Diêm Khất Nhi (阎乞儿) , khi sự việc bại lộ thì bị xử tử.
Quý phi Hoàn Nhan Toa Lý Cổ Chân (完顏莎里古真) , con gái Lộ vương Hoàn Nhan Tông Bản (完顏宗本) , từng được phong Hỗn Đồng Quận quân (混同郡君) , vốn là vợ của Tát Tốc (撒速) , được Hoàn Nhan Lượng sủng ái , sau thăng Thọ Dương Huyện chúa (寿阳县主) rồi Quý phi (贵妃).
Quý phi Hoàn Nhan Dư Đô (完顏餘都) , chị gái Quý phi Toa Lý Cổ Chân , từng được phong Thọ Dương Huyện chúa (寿阳县主) , vốn là vợ của Tùng Cổ Lạt (松古剌) , cùng chị được Hoàn Nhan Lượng sủng ái , được phong Quý phi (贵妃).
Tiêu Thần phi (蕭宸妃) , trắc phối thứ hai , xưng Đệ tam Nương tử (第三娘子) , sơ phong Chiêu dung (昭容) , sau thăng Thục phi (淑妃) rồi Thần phi (宸妃).
Gia Luật Lệ phi (耶律麗妃) , trắc phối thứ ba , cũng được xưng Đệ tam Nương tử (第三娘子) , sơ phong Tu dung (修容) , sau thăng Chiêu viên (昭媛) , Chiêu nghi (昭仪) rồi Lệ phi (麗妃).
Lệ phi Đường Quát Thạch Ca (唐括石哥) , vốn là vợ của Bí thư giám Hoàn Nhan Văn (完颜文) - con trai Oát Li Bất , em gái Định Ca. Sau khi anh trai của Hoàn Nhan Văn bị giết , được Hoàn Nhan Lượng đưa vào cung , rất được sủng hạnh. Sơ phong Tu dung (修容) , sau thăng Chiêu nghi (昭仪) , Nhu phi (柔妃) rồi Lệ phi (丽妃) , sinh một con trai.
Thục phi Hoàn Nhan Bồ Lạt (完顏蒲剌) , con gái Ngột Truật , từng được phong Tĩnh Nhạc Huyện chúa (静乐县主) , sau lại thăng làm Thọ Khang Công chúa (寿康公主). Bị ép tái giá với Hoàn Nhan Lượng , phong Thục phi (淑妃).
Thục phi Hoàn Nhan Sư Cô Nhi (完颜师姑儿) , con gái của Yên vương Hoàn Nhan Tông Tuyển (完顏宗雋) và hoàng nữ nhà Tống là Trữ Phúc Đế cơ Triệu Xuyến Châu (赵串珠; 1114 - ?) , con gái Tống Huy Tông. Nhập cung được phong Thục phi (淑妃).
Chiêu phi Bồ Sát thị (蒲察妃; ? - 1160) , tự A Lý Hổ (阿里虎) , con gái Phò mã Đô úy Nhất Lí Dã (没里野) , ban đầu là kế thất của Cát vương Bồ Sát Á Hổ Điệt (完颜阿虎迭) , sinh Hoàn Nhan Trọng Tiết. Á Hổ Điệt qua đời , ban đầu quay về nhà mẹ , sau được Hoàn Nhan Lượng đưa vào hậu cung , sơ phong Hiền phi (賢妃) , sau lại thăng Chiêu phi (昭妃). Thích uống rượu , có quan hệ đồng tính luyến ái với cung nữ Thắng Ca (胜哥) , khi sự việc bại lộ thì xử tử.
Chiêu phi Hoàn Nhan Thập Cổ (完顏什古) , con gái Oát Li Bất , từng được phong Thọ Ninh Huyện chúa (寿宁县主). , sau lại thăng làm Chiêu Ninh Công chúa (昭宁公主). Nhập cung được phong Chiêu phi (昭妃).
Chiêu phi Hoàn Nhan Trọng Tiết (完顏重節) , con gái của Cát vương Bồ Sát Á Hổ Điệt (蒲察阿虎迭) và kế phi Bồ Sát thị (sau là Chiêu phi của Hoàn Nhan Lượng) , sau được Hoàn Nhan Lượng sủng hạnh , sơ phong Bồng Lai Huyện chúa (蓬莱县主) , sau thăng Phu nhân (夫人) rồi Chiêu phi (昭妃).
Chiêu phi A Lãn (阿懶) , vốn là thiếp của Tào vương Hoàn Nhan Tông Mẫn (完顏宗敏). Tông Mẫn bị xử tử , Hoàn Nhan Lượng đưa A Lãn vào cung , phong Chiêu phi (昭妃) , sau do quần thần phản đối nên được xuất cung.
Tu nghi Cao thị (高修仪) , con gái Phụ quốc Tướng quân Cao Gia Lỗ Ngõa (高耶鲁瓦) và Mật quốc phu nhân Hoàn Nhan thị (完颜氏). Cao thị nguyên là vợ của tông thất Hoàn Nhan Củ Lý (完颜糺里). Anh trai Củ Lý là Tiêu vương Hoàn Nhan Bỉnh Đức (完颜秉德) bị xử tử , không lâu sau cũng qua đời , Cao thị được đưa vào cung , phong Tu nghi (修仪).
Thứ phi Nam thị (南氏) , vốn là thị nữ của Đại Nguyên phi , sau được Hoàn Nhan Lượng sủng hạnh , sinh hạ hoàng tử nên được phong Tài nhân (才人).
Thứ phi Bồ Sát Xoa Cát (蒲察叉察; ? - 1161) , con gái Cát vương Bồ Sát Á Hổ Điệt (蒲察阿虎迭) và Khánh Nghi Công chúa Hoàn Nhan Lượng Thư (完顏亮姐) - con gái của Oát Bản , xét theo vai vế là cháu gái , ban đầu lấy Đặc Lí (特里). Đặc Lí và gia tộc bị Hoàn Nhan Lượng xử tử , Xoa Cát ban đầu được đưa vào cung , sau tái giá với Ất Thứ Bổ (乙刺补) - em trai người chồng trước của Cao tu nghi , sau lại tư thông với Hoàn Nhan Thủ Thành (完颜守诚) , sau cùng nhân tình bị Hoàn Nhan Lượng xử tử.
Thứ phi Hoàn Nhan Tập Niệp (完顏习捻) , em gái Thục phi Bồ Lạt , vốn là vợ của Sảo Hát Ấp (稍喝押).
Thứ phi Hoàn Nhan thị , em gái Thục phi Bồ Lạt , được phong Vĩnh An Huyện chúa (永安县主) , vốn là vợ của Tấn Nguyên Quận vương Hột Thạch Liệt Chí Ninh (纥石烈志宁).
Thứ phi Quý Ca (贵哥) , vốn là thị nữ của Quý phi Đường Quát thị , sau vì khai báo chuyện tư thông mà được phong làm Tân quốc phu nhân (莘国夫人).
Thứ phi Cao Phúc Nương (高福娘) , vốn là thị nữ của Đồ Đan thái hậu , vợ của Đặc Mạt Ca (特末哥) , được phong Vân quốc phu nhân (云国夫人) , bị Thế Tông ra lệnh xử tử. - Con cái : Hoàng tử : # Trưởng tử Hoàn Nhan Nguyên Thọ (完颜元寿; 1140 - 1151) , mẹ là Đại Nguyên phi , được phong Sùng vương (崇王) , chết trẻ. # Thái tử Hoàn Nhan Quang Anh (完顏光英; 1150 - 1161) , tự A Lỗ Bổ (阿鲁补) , mẹ là Hoàng hậu Đồ Đan thị , bị tướng Ngoa Lý Dã (讹里也) xử tử tại Biện Kinh. # Tam tử Hoàn Nhan Thẩn Tư A Bất (完顏矧思阿補; 1156 - 1158) , mẹ là Lệ phi Đường Quát thị. Chết yểu năm ba tuổi , truy phong Túc vương (宿王). # Tứ tử Hoàn Nhan Quảng Dương (完颜广阳; 1157 - 1159) , mẹ là Tài nhân Nam thị. Năm 1159 được phong Đằng vương (滕王) , qua đời cùng năm đó. Công chúa : #Trưởng nữ Hoàn Nhan Hợp Nữ (完颜合女) , được phong Vinh quốc Công chúa (荣国公主) , lấy Đồ Đan Thuật Tư Lạt (徒单术斯剌) - con trai Thái thú Đông Kinh A Lý Xuất Hổ (阿里出虎). A Lý Xuất Hổ bị xử tử , phò mã Thuật Tư Lạt cũng bị thiêu chết. #Nhị nữ , lấy con trai của Ngô quốc công Tiêu Ngọc (萧玉). **#Tam nữ , lấy Ô Cổ Luận Nghị (乌古论谊) - con trai Lỗ quốc Đại Trưởng Công chúa Hoàn Nhan thị - đích nữ của Kim Thế Tông.