✨Khởi nghĩa Thanh Sơn

Khởi nghĩa Thanh Sơn

Khởi nghĩa Thanh Sơn là một trong số các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp ở vùng hạ lưu sông Đà thuộc Bắc Kỳ (Việt Nam). Công cuộc này khởi phát năm 1890 đến năm 1892 thì kết thúc sau khi thủ lĩnh Đốc Ngữ (? - 1892) bị quân Pháp sát hại.

Diễn biến

Năm 1890, thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích lâm bệnh nặng rồi mất tại căn cứ ở vùng Quế Sơn thuộc tỉnh Phú Thọ. Mất mát này khiến phong trào kháng Pháp ở vùng thượng du Bắc Kỳ mất đi sự phối hợp từng có hiệu quả. Sau đó Đốc Ngữ, một tùy tướng của Nguyễn Quang Bích, đã dẫn đạo quân của mình về Phú Thọ để tiếp tục công cuộc kháng Pháp.

Lập căn cứ Thanh Sơn

Một phần quang cảnh vùng sơn địa Thanh Sơn, thuộc Phú Thọ. Ngay khi đến Phú Thọ, Đốc Ngữ đã tổ chức thành công hai trận phục kích, đó là: *Trận Thạch Khoán:

Khi hay tin có khoảng 50 lính Pháp do thiếu úy Marghen chỉ huy đang hành quân ở Thạch Khoán, một xã thuộc huyện miền núi Thanh Sơn (Phú Thọ); lập tức Đốc Ngữ cho quân mai phục, giết chết được 3 (trong đó có Marghen) và làm bị thương 11 lính Pháp. Nghe quân tháo chạy về báo lại, quân Pháp ở đồn Hưng Hóa liền rầm rộ kéo lên trận địa. Song, nhờ địa hình hiểm trở và lòng quyết tâm, nghĩa quân đã giết chết thêm 17 lính Pháp và đẩy lui được đối phương.

*Trận Quảng Nạp: Ngày 19 tháng 5 năm 1890, một toán lính Pháp gồm 38 người (trong đó có 16 người gốc Châu Phi) do thiếu úy Ehrer chỉ huy từ Ngọc Tháp (Phú Thọ) đang tiến lên Thái Bình. Biết được, Đốc Ngữ liền cho quân mai phục ở Quảng Nạp (nay thuộc xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Sau trận này, số quân Pháp bị giết chết là 6 người, trong đó có viên thiếu úy chỉ huy.

Sau hai trận này, lợi dụng địa hình vùng Sơn Hùng-Thục Luyện thuộc huyện miền núi Thanh Sơn, Đốc Ngữ đã xây dựng ở đây thành một căn cứ kháng chiến khá vững chắc.

Đây là vùng có địa thế hiểm trở, ra vào đều rất khó đi. Từ đây, quân khởi nghĩa có thể ra Tam Nông khống chế dải sông Hồng, hoặc ra La Phù hoạt động dọc sông Đà, sang Sơn Tây và khi cần có thể rút sang Nghĩa Lộ (Yên Bái). Ngoài những ưu điểm này, ở Sơn Hùng-Thục Luyện còn có nhiều đồng ruộng phì nhiêu, có sông suối chạy qua, có đông đảo dân cư gồm người Việt và người Mường.

Gian nan trong công cuộc kháng Pháp

Từ căn cứ Thanh Sơn, Đốc Ngữ dẫn quân tác chiến nhiều nơi làm quân Pháp bị thiệt hại không nhỏ, và làm cản trở con đường lưu thông giữa hai miền Tây Bắc và Bắc Trung Kỳ của họ. Thấy phong trào kháng chiến ở vùng này ngày càng lớn mạnh (vì ngoài Đốc Ngữ, còn có các cuộc khởi nghĩa, như của Đề Ngân, Lãnh Đa, Tán Dật ở Hạ Hòa; Đề Kiều, Tán Áo ở Cẩm Khê; Lãnh Mai, Đội Bốn, Đốc Thục ở Lâm Thao, v.v...), bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Bắc Kỳ liền tăng thêm thêm quân và số đồn bốt trên dải sông Hồng, vùng Bạch Hạc (Phú Thọ), vùng Vĩnh Tường và Lập Thạch (đều thuộc Vĩnh Phúc)...

Mặc dù bị đối phương ngăn chặn và bố ráp, nhưng trong khoảng thời gian này Đốc Ngữ vẫn tổ chức được những trận tập kích và chống càn quét khá thành công. Sau đây là một số trận nổi bật:

Trận tập kích thị xã Sơn Tây

Đêm ngày 8 tháng 10 năm 1890, lợi dụng nước sông Hồng đang dâng cao, ông cho một đội quân nhỏ lẻn đến phía đầu thị xã Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) đốt cháy một nhà cửa để đánh lạc hướng quân Pháp. Quả nhiên, lực lượng của đối phương liền kéo đến nơi đó. Tức thì Đốc Ngữ cho quân dùng bè nứa đổ bộ đánh thẳng vào nhà tù, giải thoát được 174 tù nhân mà phần lớn là nghĩa quân.

Trận đánh úp Chợ Bờ

Sang đầu năm 1891, đêm 29 rạng 30 tháng 1, Đốc Ngữ mang khoảng 500 quân có trang bị súng trường bắn nhanh, từ Yên Lãng (Thanh Sơn, Phú Thọ) vượt sông Đà tập trung ở Phượng Lâm (Bất Bạt, Sơn Tây) rồi đánh úp vào tỉnh lỵ Hòa Bình (tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ thuộc châu Đà Bắc, nên cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ).

Bị tấn công bất ngờ và dữ dội, quân khố xanh tháo chạy hết, nghĩa quân làm chủ Chợ Bờ. Trận này nghĩa quân thắng to. Công sứ Rougery, đội trưởng Zeigler, Lévy và 24 lính khố xanh bị giết chết. Giám binh Ferry và viên chủ bưu điện là Ganet bị vây, từ thuyền nhảy xuống sông bị nước cuốn trôi mất tích. Ngoài ra, nghĩa quân còn thu được 118 khẩu súng trường kiểu 1874, 4 súng lục và 40.000 viên đạn.

Hôm sau, một đội thủy quân lục chiến và một cơ lính khố đỏ từ Việt Trì vội vã lên chiếm lại Chợ Bờ, nhưng không xảy ra trận đụng độ nào vì nghĩa quân đã kịp rút về Yên Lãng, bên tả ngạn sông Đà.

Trận chống càn tại Thanh Sơn lần thứ nhất

Không thể để cho nghĩa quân thỏa sức tung hoành, bộ phận chỉ huy quân Pháp ở Phú Thọ liền tổ chức cuộc càn quét quy mô vào căn cứ Thanh Sơn.

Đầu tháng 3 năm 1891, với mục đích là "cách ly bọn phiến loạn của hai tướng trên (chỉ Đốc Ngữ & Đề Kiều), dồn họ vào các dãy núi, tách họ khỏi những người Kinh vùng đồng bằng, do đó thúc đẩy sự tan rã của họ"; quân Pháp chia làm 3 đạo tiến theo 3 hướng:

Đạo thứ nhất do trung tá Geil thuộc trung đoàn số 11 thủy quân lục chiến chỉ huy, gồm 350 tay súng và 2 cỗ pháo. Theo phối hợp còn có 450 lính khố xanh. và lính cơ của thị xã Sơn Tây. Đạo quân này khởi từ Sơn Tây tiến lên rồi vượt sông Đà ở chỗ Tu Vũ (6 tháng 3), tiến qua Trí Cao về Kẽm Hem thuộc Hòa Bình. Đạo quân thứ hai do trung tá Bergouniou thuộc trung đoàn lê dương số 2 chỉ huy, gồm 125 tay súng và 150 lính khố xanh của tỉnh Hưng Hóa. Đạo quân này xuất phát từ Hưng Hóa ngày 6 tháng 3 năm 1891. Theo kế hoạch thì ngày 10 tháng 3, họ sẽ phải gặp đạo thứ nhất tại Kẽm Hem. *Đạo quân thứ ba do thiếu tá Fouquet thuộc trung đoàn 2 lính khố đỏ chỉ huy, có 300 tay súng. Đạo quân này khởi từ Văn Yên ngày 11 tháng 3 năm 1891 đến đóng đồn ở Tu Hác, với nhiệm vụ là án ngữ và càn quét vùng Ngọc Lập, Địch Quả, Thu Ngạc. Nhiệm vụ chính của đạo quân này là ngăn chặn không cho nghĩa quân Đốc Ngữ liên hệ với nghĩa quân của Đề Kiều, đồng thời ngăn không cho các phong trào kháng Pháp ở vùng thượng du lan xuống vùng đồng bằng.

Thấy quân Pháp hùng hậu quá, liệu không thể chống ngăn được, Đốc Ngữ lập tức cho quân dân thực hiện chủ trương "vườn không nhà trống". Thóc lúa, trâu bò cất giấu kín; còn người già, phụ nữ và trẻ em đều cho sơ tán lên núi rừng. Phần nghĩa quân, để bảo toàn lực lượng, Đốc Ngữ cho rút hết sang xóm Giòn.

Tuy nhiên, ngày 13 tháng 3, tại đây cũng đã xảy ra một trận chạm súng ác liệt vì quân Đốc Ngữ bị quân đối phương (do trung úy Bérard và Hiertzman chỉ huy) truy đuổi. Trận đánh đã diễn ra từ 12 giờ trưa cho đến 4 giờ chiều cùng ngày. Phía quân Pháp bị chết 6, bị thương 15 người; còn số thương vong bên nghĩa quân thì không rõ.

Ngày hôm sau (14 tháng 3), tại Cự Thắng (Thanh Sơn), đôi bên còn đụng độ một trận kịch chiến nữa, sau đó nghĩa quân mới chịu tháo lui. Trận này, quân Pháp tịch thu của nghĩa quân khoảng 6.000 viên đạn.

Do không quen thủy thổ, ngày 24 tháng 3, đại bộ phận quân Pháp rút về Hưng Hóa và Sơn Tây, chỉ để lại một số lính ở đồn Yên Lãng. Sau lần chống càn khá thành công này, Đốc Ngữ đã được bộ chỉ huy phong trào Cần Vương phong làm phó tướng đạo Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình)

Trận đánh đồn Yên Lãng

Đồn Yên Lãng là một đồn quân khá lớn, có tới 90 lính khố đỏ do Đại úy Pouligo thuộc trung đoàn 1 lính khố đỏ chỉ huy.

Chập tối ngày 5 tháng 2 năm 1892, khi một số lính đang ăn cơm, một số lính khác đang đi vào làng ruồng bố; Đốc Ngữ cùng với 200 nghĩa quân liền áp sát đồn, giết lính canh, rồi đồng loạt xông vào chiếm lấy đồn. Bị đánh bất ngờ, 7 người bị giết tại trận, trong số đó có trưởng đồn Pouligo. Số bị thương và mất tích là 17 người, trong đó có 1 viên quản, 2 viên đội và 1 viên cai. Ngoài ra, nghĩa quân còn thu được 50 súng, 35.000 viên đạn và nhiều quân trang, quân dụng.

Sau trận này, quân Pháp thật sự hoảng sợ. Chính trung tướng Puy-pê-ru đã phải thú nhận rằng: :Tất cả vùng phía Tây đường Chợ Bờ, Sơn Tây, Hưng Hóa, Yên Bái ngày càng rối loạn. Các tướng Đề Kiều và Đốc Ngữ làm chủ tuyệt đối vùng này

Trận chống càn tại Thanh Sơn lần thứ hai

Để nhanh chóng ổn định tại các vùng vừa kể, thực dân Pháp liền điều quân từ Hà Nội lên quyết giành lại đồn Yên Lãng. Cuộc hành quân này tiến theo hai ngã: Đạo thứ nhất do quan tư Bôgiơ chỉ huy, gồm 2 đại đội của trung đoàn 11 lính thủy đánh bộ và 1 đại đội của trung đoàn lính khố đỏ. Ngày 8 tháng 2 năm 1892, đạo quân này xuất pháp từ Hà Nội đến ngày 10 tháng 2 thì đến đồn Yên Lãng và tổ chức tấn công ngay. Đạo thứ hai do quan năm Boa-le-vơ chỉ huy, gồm khoảng 500 quân thuộc lữ đoàn 2 với 2 khẩu pháo, 1 xe cứu thương và 1 đoàn hậu cần. Ngày 18 tháng 2 năm 1892, đạo quân này xuất phát từ Hưng Hóa tiến lên Khả Cửu (Thanh Sơn, Phú Thọ) cốt để tiêu diệt một bộ phận nghĩa quân đang trú đóng ở đây.

Lần chống càn thứ hai này, Đốc Ngữ cũng thực hiện chủ trương "vườn không nhà trống" giống như lần đầu. Không gặp được nghĩa quân, quân Pháp đành phải rút về Hà Nội và Hưng Hóa, sau khi đốt phá đồn lũy và nhà cửa của dân. Thấy không thể ở Thanh Sơn được nữa, Đốc Ngữ cho quân rút vào Trung Bằng La (giáp với Sơn La và Yên Bái) xây dựng căn cứ mới.

Vượt vòng vây vào Thanh Hóa

Tháng 3 năm 1892, chỉ huy khu quân sự Tây Bắc là đại tá Pennequin sai quân tiến vào căn cứ Trung Bằng La. Sau một cuộc hành quân vất vả, nhưng khi đến nơi thì quân Pháp lại thấy cảnh "vườn không nhà trống" nên phải rút về Hưng Hóa và Trái Hút (Văn Yên, Yên Bái), rồi tổ chức cuộc bao vây gắt.

Trước tình hình đó, Đốc Ngữ cho quân dũng cảm mở vòng vây, rồi vượt sông Đà, sông Mã vào Thanh Hóa. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn công quân Pháp ở Niên Kỷ (Bá Thước, Thanh Hóa). Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng rồi cũng không sao cứu vãn được tình thế. Hoạt động ở đây một thời gian ngắn, thì Đốc Ngữ dẫn quân trở lại mạn sông Đà.

Bị dập tắt

Lúc này phong trào kháng chiến ở nhiều nơi đã bị dập tắt, cho nên quân Pháp đã có thể tập trung lực lượng mở những cuộc càn quét quy mô lên vùng thượng du Bắc Kỳ. Bên cạnh giải pháp quân sự (chủ yếu đàn áp và bắt bớ); các quan chức Pháp còn dùng thủ đoạn chính trị, tức là dùng tiền của và quan tước để mua chuộc các thủ lĩnh và các nghĩa quân, làm chia rẽ các dân tộc với nhau, và làm chia rẽ người dân với quân kháng chiến...

Ngoài ra, họ còn điều đến đây các viên quan giàu kinh nghiệm, như đại tá Pennequin (chỉ huy khu quân sự Tây Bắc), Lê Hoan (tuần phủ Hưng Hóa)...nên các lực lượng kháng chiến ở vùng thượng du Bắc Kỳ, trong đó có quân của Đốc Ngữ, đã gặp khó khăn về nhiều mặt.

Theo sách Việt sử tân biên (quyển 5, tập trung) thì: :''Ngày 7 tháng 8 năm 1892, nghĩa quân bị nội phản. Lúc bấy giờ bên cạnh Đốc Ngữ chỉ còn vài chục lính tráng, vì số đông bị ốm đau đã xin về xuôi. Sau đó, ông và 10 nghĩa quân người Kinh đều đã bị sát hại ở Khả Cửu .

Theo sách Lịch sử Vĩnh Phú thì: :''Lợi dụng dịp Đốc Ngữ cho một số nghĩa quân về xuôi ăn Tết, quân Pháp mua chuộc số thủ hạ còn lại rồi mở cuộc tập kích vào Khả Cửu, và đã sát hại được ông.

Sau khi Đốc Ngữ hy sinh, khoảng ba tháng sau, Lãnh Khuê (một thuộc hạ thân tín của Đốc Ngữ) cùng một ít bộ hạ bị nội gián giết chết ở Đồng Văn (Hà Giang). Cuộc khởi nghĩa mà Đốc Ngữ và các đồng đội ông đã dày công xây dựng đến cuối năm 1892 thì kết thúc.

Sau khi khởi nghĩa Thanh Sơn thất bại

Trong khoảng thời gian này (1892-1893), nhiều thủ lĩnh ở các nơi khác cũng lần lượt bị đối phương sát hại, như: Lãnh Mai (thủ lĩnh nghĩa quân vùng Thanh Mai thuộc Lâm Thao) bị tay sai bắt nộp cho Pháp, rồi bị chém chết ở Sơn Tây. Lãnh Hặc (thủ lĩnh nghĩa quân vùng Mai Tùng, thuộc Hạ Hòa) bị quân Pháp bắt rồi bị chém chết tại đình làng. Lãnh Đa (thủ lĩnh nghĩa quân vùng Xuân Áng thuộc Hạ Hòa) bị quân Pháp bắn chết khi vượt sông Hồng.

Tán Dật (thủ lĩnh nghĩa quân vùng Lang Sơn, thuộc Hạ Hòa) lâm vào thế cô, uống thuốc độc tuẫn tiết... Một số thủ lĩnh khác cũng lần lượt ra hàng (trong số đó có Đề Kiều, một cộng sự đắc lực của Đốc Ngữ).

Phong trào khởi nghĩa ở vùng hạ lưu sông Đà (mà nổi bật hơn cả là cuộc khởi nghĩa do Đốc Ngữ làm thủ lĩnh), tiếp nối phong trào Tây Bắc do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo, đến 1893 thì bị đánh dẹp.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khởi nghĩa Thanh Sơn** là một trong số các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp ở vùng hạ lưu sông Đà thuộc Bắc Kỳ (Việt Nam). Công cuộc này khởi phát năm 1890 đến năm 1892
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
**Khởi nghĩa Bắc Sơn** - Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, vào tháng 6 năm 1940, nước Pháp bị quân đội Đức Quốc xã xâm lược và chiếm đóng. Nhân cơ hội
**Khơi nghĩa Lam Sơn ở Nghệ An** nhằm chỉ những sự kiện nằm trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra ở Nghệ An. ## Bối cảnh Từ năm 1266 đến năm 1400, nước Việt
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Nam Kỳ khởi nghĩa** là cuộc nổi dậy vũ trang chống Pháp và Nhật của người dân Nam Kỳ vào năm 1940, do Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương
**Phong trào nghĩa binh Áo Đỏ** (chữ Hán: 紅衣軍; Hán Việt: _Hồng Y quân_) xuất hiện vào năm 1410 nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh tại Việt Nam do các nghĩa binh
**Đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa**, trước đây là **đường Công Lý** là một tuyến đường tại khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, nối từ cầu Công Lý (Quận 3) đến đường Võ
nhỏ|phải|[[Phan Đình Phùng, thủ lĩnh Khởi nghĩa Hương Khê.]] **Khởi nghĩa Hương Khê** (1885 - 1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương, và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu
Tượng đài [[Trần Văn Thành ở thị trấn Cái Dầu]] **Khởi nghĩa Bảy Thưa** (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên
**Khởi nghĩa Khăn Vàng**, tức** loạn Hoàng Cân**, **loạn Huỳnh Cân** hay** loạn Khăn Vàng** (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: _Hoàng Cân
**Khởi nghĩa Ba Đình** là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
**Khởi nghĩa Hùng Lĩnh** là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Công cuộc này khởi phát năm 1887 tại Hùng Lĩnh
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
**Khởi nghĩa Giàng Pả Chay** hay **Nổi dậy Vừ Pả Chay** là một cuộc nổi dậy của người H'Mông chống lại chính quyền thực dân Pháp ở Tây Bắc Đông Dương kéo dài từ năm
**Trận bao vây thành Đông Quan**, diễn ra cuối năm 1426 đến cuối năm 1427, đánh dấu giai đoạn quyết định trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khi nghĩa quân dưới sự chỉ huy của
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) Yên Thế, Bắc Kỳ - Nhóm nghĩa quân người Mán dưới quyền thủ lĩnh Phạm Quế Thắng ở Vũ NhaiYên Thế, Bắc Kỳ
**Khởi nghĩa Yên Bái** (chính tả cũ: _Tổng khởi-nghĩa Yên-báy_) là một cuộc nổi dậy bằng vũ trang bùng phát tại Yên Bái, một phần trong cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) **Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế** gồm nhiều di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Khu di tích này
**Lê Khôi** (; ? - 1446), tên thụy là **Vũ Mục**, công thần khai quốc nhà Lê sơ. Ông là con trai của Lê Trừ- anh thứ hai của Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa
**Khởi nghĩa Ba Tơ** là cuộc nổi dậy giành chính quyền của quân dân châu Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, nổ ra ngày 11 tháng 3 năm 1945, sau 2 ngày Nhật đảo chính
**Khởi nghĩa Lê Ngọc** là cuộc kháng chiến chống nhà Đường, diễn ra vào đầu thế kỷ VII, do Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng 4 người con lãnh đạo. ## Thân thế
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
**Khởi nghĩa Đại Thừa Giáo** (chữ Hán: 大乘教起义, Đại Thừa Giáo khởi nghĩa) còn gọi là **sự kiện Pháp Khánh** (chữ Hán: 法慶事件, Pháp Khánh sự kiện) hay **khởi nghĩa Pháp Khánh** (chữ Hán: 法慶起义,
**Triệu Thắng** (, ? – 1631), còn có tên là **Triệu Tứ Nhi** hay **Mạnh Trường Canh** , xước hiệu là **Điểm đăng tử** hay **Nhị đội**, người Thanh Giản, Thiểm Tây, thủ lĩnh khởi
**Khởi nghĩa Xích Mi** (chữ Hán: 赤眉) là lực lượng khởi nghĩa thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc chống lại sự cai trị của Vương Mãng. Xích Mi quân cùng Lục Lâm quân
**Khởi nghĩa Vũ Xương** là một cuộc khởi nghĩa phản Thanh của người Hán của Trung Quốc có tác dụng như chất xúc tác cho cách mạng Tân Hợi, chấm dứt triều đại nhà Thanh
**Biến loạn Quý Dậu** (癸酉之变), hay **Khởi nghĩa Thiên Lý Giáo** (天理教起义), **Bát Quái Giáo khởi loạn** (八卦教之乱) là một cuộc khởi nghĩa nông dân của giáo phái Thiên Lý năm Gia Khánh thứ 18
**Đội du kích Bắc Sơn** được thành lập vào ngày 14 tháng 2 năm 1941. Thực hiện chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ VII (11-1940) về việc duy trì và bồi dưỡng
nhỏ|Vị trí thành Trà Lân và phủ Nghệ An thời thuộc Minh Thành **Trà Lân** (chữ Hán: 茶麟), còn được gọi là **Trà Long** (茶籠), là một thành cổ, thủ phủ của phủ Trà Lân,
Cuộc **khởi nghĩa Chu Đạt** diễn ra từ năm 156 đến năm 160. Năm 156, Chu Đạt, người huyện Cư Phong, Cửu Chân (nay là xã Phú Hào-Thọ Phú, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa), nổi
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi cùng các hào kiệt phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Ở buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng họ vẫn
**Khúc Thanh Sơn** (tiếng Trung giản thể: 曲青山, bính âm Hán ngữ: _Qū Qīngshān_; sinh tháng 5 năm 1957, người Hán) là nhà sử học, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
**Đầu Tử Nghĩa Thanh** (zh. 投子義青, ja. _Tōsu Gisei_, ko. _T'uja Ŭich'ǒn,_ 1032-1083) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, Tổ thứ 7 của Tào Động tông. Sư đạt đạo nơi Thiền sư Phù Sơn
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Khởi nghĩa Mỹ Lương** (sử cũ gọi là **Giặc Châu Chấu**) là một cuộc nổi dậy từ năm 1854 đến năm 1856 để chống lại triều đình vua Tự Đức, do Lê Duy Cự làm
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Lê Lai** là một tướng lĩnh tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, ông được coi là một anh hùng, một tấm gương trung nghĩa với sự kiện nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam là
thumb|Mẫu Thượng Ngàn trong [[tranh Hàng Trống]] phải|bàn thờ mẫu Thượng Ngàn **Lâm Cung Thánh Mẫu** (林宮聖母) hay **Mẫu Thượng Ngàn** (母上𡶨) hoặc **Bà Chúa Thượng Ngàn** (婆主上𡶨), **Thượng Ngàn Lê Mại Đại Vương** (上岸黎邁大王)
thumb|Vị trí khởi nghĩa thu hoạch mùa thu. **Khởi nghĩa Thu hoạch Mùa thu** () còn được gọi “**khởi nghĩa vụ gặt mùa thu”,** hay **“Khởi nghĩa Thu Thụ”** là cuộc nổi loạn diễn ra
**Tây Sơn** là một huyện nằm ở tỉnh Gia Lai, Việt Nam. Đây là một vùng địa lý quan trọng ở khu vực Duyên hải Nam Trung bộ, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng ven
Thượng tướng **Chu Văn Tấn** (1910–1984) là một vị tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đặt nền móng gây dựng nên lực lượng vũ trang Việt Nam. ## Thân thế Ông là
**Nguyễn Chích** (chữ Hán: 阮隻 1382–1448) hay **Lê Chích** (黎隻) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn (nay
**Trần Nguyên Hãn** (chữ Hán: 陳元扞, 1390–1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham gia khởi nghĩa Lam
**Đinh Lễ** (chữ Hán: 丁禮; ?-1427) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người sách Thùy Cối, nay là Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam. Ông tham
**Lê Sát** (chữ Hán: 黎察, ? – 1437) là chính khách, nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa,
**Trần Cảo** (chữ Hán: 陳暠) là thủ lĩnh quân khởi nghĩa ở Đại Việt cuối thời Lê sơ. Ông lãnh đạo dân chúng nổi dậy chống các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông,
**Lê Ngân** (chữ Hán: 黎銀, ?-1437) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người xã Đàm Di, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam. Lê Ngân