✨Lưu Thông
Lưu Thông () (?-318), tên tự Huyền Minh (玄明), nhất danh Tải (載), người Hung Nô, gọi theo thụy hiệu là Hán (Triệu) Chiêu Vũ Đế (漢(趙)昭武帝), là hoàng đế thứ ba của nhà Hán thời Thập Lục Quốc. Trong thời kỳ chấp chính, ông trước sau phái binh công phá Lạc Dương và Trường An, bắt giữ rồi sát hại Tấn Mẫn Đế và Tấn Hoài Đế, hủy diệt chính quyền Tây Tấn, đồng thời mở mang cương thổ. Về chính trị, ông sáng kiến thể chế chính trị Hồ, Hán phân trị. Tuy nhiên, ông cũng lạm sát, lại sủng tín bọn hoạn quan và Cận Chuẩn, thậm chí vào cuối thời gian tại vị ông còn bỏ bê triều chính, chỉ quan tâm đến tình sắc hưởng lạc. Ông còn lập ba hoàng hậu cùng một lúc.
Thời ông trị vì, cả bản thân ông và Hán Triệu thể hiện thế lực lớn mạnh, Hán Triệu từ một nước nhỏ cát cứ tại nam bộ Sơn Tây đã kiểm soát toàn bộ Sơn Tây, Thiểm Tây, đông bộ Cam Túc và một phần đáng kể Sơn Đông, Hà Bắc và Hà Nam, mặc dù vậy, phần phía đông của đế quốc nằm dưới quyền quản lý của tướng Thạch Lặc và có thể coi là chỉ thuộc Hán trên danh nghĩa. Hán Triệu sau này sẽ không bao giờ có thể đạt được sự lớn mạnh như vậy.
Sự nghiệp ban đầu
Lưu Thông là con trai thứ tư của Lưu Uyên, mẹ là Trương phu nhân. Khi còn nhỏ tuổi, ông kiêu dũng, thông minh sáng dạ và hiếu học. Năm 14 tuổi, ông đã thông kinh sử, học thuyết của bách gia, quen thuộc với "Tôn Ngô binh pháp". Ông cũng giỏi văn chương, thạo thư pháp, có tài về thảo thư và lệ thư. Năm 15 tuổi, ông tập võ nghệ, giỏi bắn tên, thể lực dũng mãnh, không ai sánh kịp. Năm 20 tuổi, ông đến kinh sư Lạc Dương của Tấn, qua lại với nhiều danh sĩ, hai triều thần Tấn là Lạc Quảng (樂廣) và Trương Hoa (張華) khi đó đã nhận thấy ông có tài năng xuất chúng. Sau đó, ông làm "chủ bộ" cho Tân Hưng thái thú, do thể hiện được bản lĩnh nên được làm Kiêu kị biệt bộ tư mã, rồi Hữu bộ đô úy, ông giỏi an phủ thu nhận nên được hào hữu Hung Nô ngũ bộ quy thuận. Cuối cùng, Hà Gian vương Tư Mã Ngung (司馬顒) tiến cử ông làm Xích sa trung lang tướng để làm thuộc hạ, song ông lo ngại vì cha ông khi đó đang là thuộc hạ của Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh (司馬穎). Ông vì thế đã chạy đến chỗ Tư Mã Dĩnh và phục vụ cho thế lực này, được trao chức Hữu tích nỗ tướng quân.
Năm Vĩnh An thứ 1 (304), trong loạn bát vương, Tư Mã Dĩnh nhậm mệnh Lưu Uyên làm Bắc thiền vu, Lưu Thông được lập làm Hữu Hiền vương, cùng cha nhậm mệnh trở về Hung Nô ngũ bộ để tập hợp viện quân cho Tư Mã Dĩnh. Sau khi về Hung Nô ngũ bộ, Lưu Uyên tức vị Đại thiền vu, đổi Lưu Thông làm Lộc Lễ vương.
Tháng 1 năm Mậu Thìn (308), Hán vương Lưu Uyên khiển Phủ quân tướng quân Lưu Thông cùng các tướng khác đến phía nam chiếm cứ Thái Hành. Ngày Giáp Tuất (3) tháng 10 cùng năm (2 tháng 11 năm 308), Lưu Uyên tức hoàng đế vị, đến tháng 11 thì lập Lưu Thông làm Xa kị đại tướng quân.
Hè năm sau, Sở vương Lưu Thông phối hợp cùng Vương Di và Thạch Lặc tiến công Hồ Quan. Lưu Côn khiển Hộ quân Hoàng Túc, Hàn Thuật đến cứu, Lưu Thông đánh bại Hàn Thuật tại Tây Giản, còn Thạch Lặc đánh bại Hoàng Túc ở Phong Điền, cả hai đều bị giết. Thái phó Tư Mã Việt của Tây Tấn khiển Hoài Nam nội sử Vương Khoáng (王曠), Tướng quân Thi Dung, Tào Siêu đem quân chống bọn Lưu Thông. Bọn Vương Khoáng vượt qua Thái Hành ngộ chiến với Lưu Thông ở Trường Bình (長平, nay thuộc Tấn Thành, Sơn Tây), quân của Vương Khoáng đại bại, Thi Dung và Tào Siêu đều tử chiến. Tiếp đến, Lưu Thông phá Đồn Lưu, Trường Tử, giết được 19.000 người. Thượng Đảng thái thú Bàng Thuần (龐淳) đem Hồ Quan hàng Hán, Lưu Côn cho Trương Ỷ làm Thượng Đảng thái thú, cứ ở Tương Viên. Sau đó, thừa cơ Lưu Côn tự đem quân đi đánh thủ lĩnh Thiết Phất bộ là Lưu Hổ, Lưu Thông khiển binh đánh úp Lạc Dương, song không chiếm được thành. Sang tháng 8 ÂL, Lưu Uyên mệnh bọn Lưu Thông tiến công Lạc Dương, quân Hán đánh bại bọn Bình Bắc tướng quân Tào Vũ của Tấn. Lưu Thông nhanh chóng tiến đến Nghi Dương, song ông lại khinh địch, không chuẩn bị kỹ lưỡng. Sang tháng 9 ÂL, Hoằng Nông thái thú Hoàn Diên (桓延) trá hàng, đến đêm đánh úp quân của Lưu Thông, quân của Lưu Thông đại bại và phải rút về.
Sang tháng 10 ÂL, Lưu Uyên lại khiển Lưu Thông, Vương Di, Thủy An vương Lưu Diệu, Nhữ Âm vương Lưu Cảnh suất năm vạn kị binh tinh nhuệ tiến công Lạc Dương, Đại tư không Hô Diên Dực suất bộ binh theo sau. Ngày Bính Thìn (21) cùng tháng (9 tháng 12), bọn Lưu Thông đến Nghi Dương, triều đình Tây Tấn thấy quân Hán mới bị đánh bại song nhanh chóng phục chí thì rất lo sợ. Đến ngày Tân Dậu (26) cùng tháng (14 tháng 12), quân Lưu Thông đóng quân ngoài Tây Minh môn. Bọn Bắc Cung Thuần (北宮純) của Tây Tấn đến ban đêm suất hơn một nghìn dũng sĩ ra khỏi thành đánh lũy trại quân Hán, chém Chinh lỗ tướng quân Hô Diên Hiệu. Ngày Nhâm Tuất (15 tháng 12), Lưu Thông dời về phía nam đóng quân ven Lạc Thủy. Ngày Ất Sửu, Hô Diên Dực bị bộ hạ sát hại, binh sĩ ở Đại Lương mất chủ nên trở về, Lưu Uyên ra chiếu thư cho Lưu Thông triệt binh. Tuy nhiên, Lưu Thông lại dâng biểu nói rằng quân đội của Tây Tấn vừa nhỏ vừa yếu, không thể vì Hô Diên Hiệu và Hô Diên Dực bị giết mà triệt binh, xin được ở lại đánh Lạc Dương, Lưu Uyên chấp thuận. Thái phó Tư Mã Việt anh thành tự thủ. Ngày Mậu Dần khi Lưu Thông đến cúng tế tại Tung Sơn, để Bình Tấn tướng quân-An Dương Ai vương Lưu Lệ, Quán quân tướng quân Hô Diên Lãng đốc nhiếp lưu quân, Tư Mã Việt thừa cơ xuất kích giết được Hô Diên Lãng, Lệ xuống Lạc Thủy tự sát. Vương Di nói với Lưu Thông rằng Lạc Dương phòng thủ vẫn kiên cố, lương thực lại không đủ, khuyên Lưu Thông triệt binh, song Lưu Thông lúc trước tự thỉnh xin được ở lại nên không dám trở về. Lưu Thông biểu đạt lại với Lưu Uyên, nói rằng vận mệnh của Tấn vẫn thịnh, nếu đại quân không về thì tất bại, Lưu Uyên do vậy triệu Lưu Thông đem quân về.
Cũng trong mùa xuân năm 312, Lưu Thông lập cựu hoàng đế Tấn làm Cối Kê quận công, cho làm Nghi đồng tam ty. Một lần, sau khi mời Cối Kê công đến dự tiệc, Lưu Thông bình luận rằng họ đang làm gì khi cựu hoàng đế vẫn còn là Dự Chương vương, dẫn đến một cuộc đàm luận, trong đó Hội Kê công khéo léo xu nịnh hoàng đế Hán. Lưu Thông sau đó ban một quý nhân họ Lưu cho Cối Kê quận công.
Thời kỳ trị vì sau
Tháng 11 ÂL, Lưu Thông lập Tấn vương Lưu Xán làm tướng quốc, đại thiền vu. Điều này khiến cho em trai ông là Thái đệ Lưu Nghệ trở nên sợ hãi trong thâm tâm, những người kết giao với Thái đệ đề xuất vào năm 315 về việc tiến hành lật đổ Lưu Thông. Lưu Nghệ tuy vậy không đồng ý kế hoạch này, song Đông cung xá nhân Tuân Dụ cáo việc này với Lưu Thông. Lưu Thông cho quản thúc Lưu Nghệ tại Đông cung.
Tháng 12 ÂL, Lưu Thông thiết đãi quần thần ở Quang Cực điện, bắt cựu hoàng Tấn Mẫn Đế phải rót rượu rửa chén như Hoài Đế trước kia, cựu thần Tấn thấy vậy nhiều người khóc thất thanh. Cũng vào khoảng thời gian này, có một số cuộc nổi dậy chống lại Hán, từng tuyên bố muốn bắt Lưu Xán để đổi lấy Tấn Mẫn Đế. Lưu Xán do vậy đề nghị giết Tấn Mẫn Đế, Lưu Thông đồng ý. Dưỡng nữ của Trung thường thị Vương Thẩm có nhan sắc, được Lưu Thông lập làm Tả hoàng hậu. Sau đó, Lưu Thông lại lập dưỡng nữ của Tuyên Hoài làm Trung hoàng hậu. Khi nằm bệnh, Lưu Thông triệu Lưu Diệu và Thạch Lặc về kinh để phụ chính, song cả hai đều từ chối. Ngày Quý Hợi (19) tháng 7 (31 tháng 8), Lưu Thông mất, Thái tử Lưu Xán sau đó tức vị. Lưu Thông được táng ở Tuyên Quang lăng, thụy hiệu là Chiêu Vũ hoàng đế, miếu hiệu là Liệt Tông.
Tuy nhiên, trong cùng năm, Lưu Xán bị Cận Chuẩn sát hại, Cận Chuẩn sau đó còn thảm sát cả hoàng tộc. Lưu Diệu và Thạch Lặc đánh bại Cận Chuẩn và Lưu Diệu lên ngôi hoàng đế, song Lưu Diệu và Thạch Lặc sau đó trở nên bất hòa, Thạch Lặc tuyên bố độc lập và lập quốc Hậu Triệu. Đế quốc mà Lưu Thông xây dựng nên bị phân làm hai nửa.
Thông tin gia đình
- Cha: ** Lưu Uyên (Quang Văn Đế)
- Mẹ: ** Trương hoàng hậu
- Hậu phi: Vũ Nguyên hoàng hậu Hô Diên thị (lập 310, mất 312), mẹ của Lưu Xán Vũ Hiếu hoàng hậu Trương Huy Quang (lập và mất năm 313) Vũ Tuyên hoàng hậu Lưu Nga (lập 313, mất 314) Tả quý tần Lưu Anh xinh đẹp tuyệt trần, về sau được sắc phong hoàng hậu. Nhiều hoàng hậu sau khi Vũ Tuyên hoàng hậu băng thệ: ** Thượng hoàng hậu Cận Nguyệt Quang (靳月光), con gái của Cận Chuẩn (lập và tự sát năm 315) Lưu Tả hoàng hậu, (lập 315) Hữu hoàng hậu Cận Nguyệt Hoa (靳月華), con gái của Cận Chuẩn (lập 315) Phàn Thượng hoàng hậu (lập 316) Vương Tả hoàng hậu (lập 318), con gái nuôi của Vương Thẩm (王沈) Tuyên Trung hoàng hậu (lập 318), con gái nuôi của Tuyên Hoài (宣懷)
- Hậu duệ: Lưu Xán (劉粲), ban đầu phong Hà Nội vương, sau lập làm thái tử, sau khi kế vị bị Cận Chuẩn giết hại Lưu Dịch (劉易), Hà Gian vương (lập 310, mất 316) Lưu Dực (劉翼), Bành Thành vương (lập 310) Lưu Lý (劉悝), Cao Bình vương (lập 310) Lưu Phu (劉敷), Bột Hải vương (lập 312, d. 316) Lưu Ký (劉驥), Tế Nam vương (lập 312, xử tử 318) Lưu Lan (劉鸞), Yên vương (lập 312) Lưu Hồng (劉鴻), Sở vương (lập 312) Lưu Mại (劉勱), Tề vương (lập 312, xử tử 318) Lưu Quyền (劉權), Tần vương (lập 312) Lưu Thao (劉操), Ngụy vương (lập 312) Lưu Trì (劉持), Triệu vương (lập 312) Lưu Hằng (劉恆), Đại vương (lập 312) Lưu Sính (劉逞), Ngô vương (lập 312, xử tử 318) Lưu Lãng (劉朗), Dĩnh Xuyên vương (lập 312) Lưu Cao (劉皋), Linh Lăng vương (lập 312) Lưu Húc (劉旭), Đan Dương vương (lập 312) Lưu Kinh (劉京), Thục vương (lập 312) Lưu Thản (劉坦), Cửu Giang vương (lập 312) Lưu Hoảng (劉晃), Lâm Xuyên vương (lập 312) Liu Khang (劉康)/Lưu Trung (刘衷), Hội Kê vương (mất 318) Lưu Ước (劉約), Đông Bình vương, (mất 318?)