Vương Cung (chữ Hán: 王恭, ? – 398), tên tự là Hiếu Bá, người Tấn Dương, Thái Nguyên, là đại thần, ngoại thích nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh của Định hoàng hậu Vương Pháp Tuệ (vợ vua Hiếu Vũ đế). Nắm trong tay lực lượng thiện chiến nhất của nhà Đông Tấn là Bắc Phủ binh, ông đã 2 lần khởi binh uy hiếp người nắm quyền chính ở Kiến Khang là Hội Kê vương Tư Mã Đạo Tử. Nhưng vào lần thứ 2, Vương Cung bị bộ tướng Lưu Lao Chi trở giáo, nên thất bại, bị bắt và bị xử tử. Trước lúc chịu hình, ông vẫn khẳng định hành động khởi binh của mình hoàn toàn xuất phát từ quan điểm trung thành với triều đình.
Tuổi trẻ nổi danh
Ông nội là danh sĩ Vương Mông nhà Tây Tấn. Cha là quang lộc đại phu Vương Uẩn. Từ nhỏ đã nổi tiếng là thanh liêm, tiết tháo hơn người; tự phụ tài năng cao vời, luôn muốn làm đến bậc tể phụ. Ông nổi tiếng ngang hàng với Vương Thầm (con của Vương Thản Chi), hâm mộ cách làm người của Lưu Đàm . Tạ An thường nói: "Người như Vương Cung sau này có thể làm được Bá Cữu "
Vương Cung thường theo cha từ Hội Kê đến kinh đô, Vương Thầm đến thăm, thấy ông đang ngồi trên 1 chiếc đệm rộng 6 thước, bèn hỏi một cái cho mình. Vương Cung lập tức rút đệm cho Thầm, còn mình ngồi xuống chiếu cói, Thầm thấy vậy giật mình, ông nói: "Tôi bình sinh chẳng có thừa vật gì!" Cho thấy tính cách giản dị qua loa của ông.
Nói thẳng mích lòng
Ông ban đầu làm Tá trước tác lang, thường mong ước được làm tể tướng để bộc lộ hết tài năng, vì vậy cáo bệnh mà từ chối. Không lâu sau làm Bí thư thừa, đổi sang Trung thư lang, chưa nhận chức thì cha mất.
Mãn tang, được ban chức lại bộ lang, từng làm Kiến uy tướng quân một thời gian. Trong những năm Thái Nguyên (376 – 396) thời Tấn Hiếu Vũ Đế, ông thay Thẩm Gia làm Đan Dương doãn, dời sang làm Trung thư lệnh, lĩnh chức Thái tử chiêm sự.
Hiếu Vũ đế cho rằng Cung là anh hoàng hậu, rất muốn trọng dụng. Khi ấy người Trần Quận là Viên Duyệt Chi xu nịnh Tư Mã Đạo Tử, ông tâu lên đế, Duyệt Chi bị giết.
Đạo Tử thường triệu tập bá quan, bày tiệc ở Đông Phủ, Thượng thư lệnh Tạ Thạch nhân say rượu mà làm ra "ủy hạng chi ca" (Tạm dịch: bài ca con ngõ). Cung chỉ trích lời lẽ dâm loạn, Thạch rất ấm ức.
Con dâu của Hoài Lăng nội sử Ngu Diêu là Bùi thị biết "phục thực chi thuật" , thường mặc áo vàng, bộ dạng như thiên sư. Đạo Tử rất hâm mộ, lệnh cho tân khách cùng đàm luận. Vương Cung nói rằng: "Chưa từng nghe nói ở nhà của tể tướng lại có đàn bà mất nết!" mọi người không dám đáp lại, Đạo Tử rất lấy làm hổ thẹn.
Sau việc ấy, đế muốn lấy Cung làm chỗ phên dậu, dùng ông làm đô đốc chư quân sự của Duyện, Thanh, Ký, U, Tịnh, và Tấn Lăng của Từ Châu, Bình bắc tướng quân, Duyện, Thanh 2 châu thứ sử, giả tiết, trấn Kinh Khẩu, nắm giữ Bắc phủ binh. Nhưng những người làm đô đốc có hiệu là Bắc đều gặp chuyện chẳng lành, Hoàn Xung, Vương Thản Chi, Điêu Di Chi đều không nhận hiệu Trấn Bắc. Cung dâng biểu từ chối quân hiệu, lấy cớ chức vị quá cao, kỳ thực để tránh tên xấu. Vì thế được đổi làm Tiền tướng quân.
Mộ Dung Thùy xâm nhập Thanh Châu, ông sai quân chống cự, thất bại, bị giáng hiệu Phụ quốc tướng quân.
Bất hòa với Đạo Tử
Khi đế băng, Tư Mã Đạo Tử chấp chính, sủng ái Vương Quốc Bảo, ủy cho quyền hành. Cung nói thẳng không kiêng dè, Đạo Tử vừa sợ vừa giận. Khi đến lăng Long Bình, bãi triều, than rằng: "Rui mái dù mới, rồi phải hát bài ‘Thử Li’ mất thôi!"
Khi ấy em họ của Quốc Bảo là Vương Tự đề nghị phục binh giết Cung, Quốc Bảo không dám. Còn Đạo Tử muốn hòa hợp trong ngoài, nhiều lần bày tỏ nỗi lòng với Cung, để cùng nhau nắm quyền. Cung đều không thuận, mỗi lần bàn việc, thái độ quyết liệt, Đạo Tử biết là không thể thỏa hiệp được!
Có nhiều người khuyên Cung giết Quốc Bảo, ông sợ đồng đảng của Quốc Bảo trong triều rất nhiều, không dám. Ông bèn trở về Trấn, lúc chia tay, lại rơi nước mắt khuyên nhủ Đạo Tử một lần nữa, lời lẽ thống thiết, khiến cho bọn Quốc Bảo càng sợ.
Đạo Tử lấy Cung làm An bắc tướng quân, không nhận.
Uy hiếp triều đình lần 1
Cung mưu trừ Quốc Bảo, gởi thư kết minh với Ân Trọng Kham, Hoàn Huyền, Trọng Kham vờ nhận lời. Cung được thư, mừng lắm, dâng biểu xin giết Quốc Bảo. Biểu dâng lên, Kiến Khang trong ngoài giới nghiêm, Quốc Bảo hoảng sợ, xin giải chức. Đạo Tử bắt giết Quốc Bảo, Cung bèn trở về Kinh Khẩu.
Lúc mới dâng biểu, Cung sợ việc không thành, lấy Tư đồ tả trưởng sử Vương Hân làm Ngô Quốc nội sử, lệnh ông ta cất quân ở phía đông. Sau khi Quốc Bảo chết rồi, bèn lệnh cho Hân giải chức. Hân cả giận, cất quân đánh Cung. Ông sai Lưu Lao Chi tiêu diệt Hân, rồi dâng biểu tự biếm, triều đình không cho.
Uy hiếp triều đình lần 2
Tiếu vương Tư Mã Thượng Chi hiến kế cho Đạo Tử tăng cường quyền lực của tể tướng. Đạo Tử đồng ý, lấy tư mã Vương Du của mình làm Giang Châu thứ sử, cắt 4 quận thuộc Dự Châu của Dữu Giai giao cho Du. Giai giận, sai con trai là Hồng đưa thư khuyên Cung cất quân trừ bọn Thượng Chi.
Cung lại liên kết với bọn Trọng Kham, hẹn ngày cùng đến kinh sư. Ông phát hiện được thư Giai gửi cho bọn Trọng Kham, nhưng chữ đã nhòe, không đọc được. Cung cho rằng Giai có điều dối trá, vả lại năm ngoái bọn Trọng Kham cũng không đến, nên cất quân đi trước. Tư mã Lưu Lao Chi can rằng triều đình cắt 4 quận của Dữu Giai chẳng có gì sai, ông không nghe, dâng biểu lấy việc phong quan cho Vương Du và anh em Thượng Chi làm lý do.
Triều đình sai Tư Mã Nguyên Hiển cùng bọn Vương Tuần, Tạ Diễm chống lại. Cung mơ thấy Lao Chi ngồi ở chỗ của mình, đến sáng nói với ông ta rằng: "Việc thành, lập tức lấy khanh làm Bắc phủ!" Rồi sai Lao Chi cùng thân tín của mình là Đốc (chức vụ) Nhan Duyên đi trước chiếm Trúc Lý. Nguyên Hiển sai sứ du thuyết Lao Chi, ông ta bèn chém Nhan Duyên để hàng.
Ngày hôm ấy, Lao Chi sai con rể Cao Nhã Chi, con trai Lưu Kính Tuyên nhân lúc Cung bày trận, đưa khinh kỵ đến đánh. Cung thua chạy, muốn trở về, Nhã Chi đóng chặt cửa thành. Cung và em trai Lý cưỡi ngựa đến Khúc A. Cung đã lâu không cưỡi, bắp vế sinh nhọt, không thể đi tiếp. Người Khúc A là Ân Xác, vốn là tham quân của Cung, dùng thuyền mà chở, giấu ông ở dưới chiếu lau, muốn chạy đến chỗ Hoàn Huyền.
Đến hồ Trường Dương, gặp thương nhân Tiền Cường. Cường có thù cũ với Xác, nên tố cáo với Hồ Phổ Úy. Úy bắt họ đưa đến kinh sư. Đạo Tử muốn gặp mặt để chế giễu, nghe tin bọn Hoàn Huyền đã đến Thạch Đầu, vội xử chém ông ở Nghê Đường, Kiến Khang.
Đánh giá
Tính cách
Cung tính cương trực, rất chuộng tiết nghĩa, mỗi lần đọc Tả truyện đến "Phụng vương mệnh, thảo bất đình" (tạm dịch: nhận lệnh vua, đánh không (cần) xét xử) đều gấp sách mà than thở.
Nhưng ông cũng kém rộng rãi, lại không biết nắm lấy cơ hội. Cung nắm quyền Bắc phủ binh, nhưng bởi xuất thân quý tộc, nên có thái độ xa cách với tướng sĩ bộ hạ. Ông không giỏi dùng binh, lại tin sùng đạo Phật; điều động trăm họ, xây sửa chùa chiền, sao cho tráng lệ, quan dân đều oán.
Lúc chịu hình, vẫn còn tụng kinh Phật, tự sửa râu tóc, mặt không có nét sợ hãi, nói với viên giám hình rằng: "Ta tin lầm người mới đến nỗi này, vốn trong lòng ta, không hề bất trung với xã tắc! Phải để cho trăm đời sau biết đến Vương Cung này!"
Nhà không có tài sản, chỉ có sách vở, người biết chuyện đều thương xót!
Phong thái
Cung dáng vẻ đẹp đẽ, nhiều người ưa thích. Mọi người khen rằng "tươi tắn như liễu mùa xuân" (Hán Việt: trạc trạc như xuân nguyệt liễu).
Thường trùm áo cừu bằng lông hạc, lội tuyết mà đi, Mạnh Sưởng trông thấy, than rằng: "Đây thật là một bậc thần tiên!"
Hậu nhân
Cung bị xử tử, năm con trai, em trai Sảng, cháu gọi bằng chú là Hòa, đồng đảng là bọn Mạnh Phác, Trương Khác đều bị giết. Vào lúc chịu hình, gặp được cố nhân là Đái Kỳ Chi, gởi gắm đứa con thứ còn nhỏ đang ở nhà nhũ mẫu. Kỳ Chi bèn đưa đứa nhỏ đến Hạ Khẩu, giao Hoàn Huyền nuôi dưỡng, cho để tang Cung.
Sau khi Huyền chấp chính, dâng biểu nói lý cho ông, truy tặng Thị trung, Thái bảo, thụy là Trung Giản. Sảng được tặng Thái thường, Hòa cùng con là Giản đều được tặng Thông trực tán kị lang, Ân Xác được tặng Tán kị thị lang. Chém ngang lưng bọn Hồ Phổ Úy, Tiền Cường. Con thứ Đàm Hanh trong những năm Nghĩa Hi làm Cấp sự trung.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Cung** (chữ Hán: 王恭, ? – 398), tên tự là **Hiếu Bá**, người Tấn Dương, Thái Nguyên, là đại thần, ngoại thích nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh của
**Vương Du** (chữ Hán: 王愉, ? – 30/3/404), tự **Mậu Hòa** (茂和), tiểu tự **Câu** (驹), người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên cuối đời Đông Tấn. ## Sự nghiệp Du là hậu duệ
**Vương Khải** (chữ Hán: 王恺, ? – ?), tự Mậu Nhân, người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên, danh sĩ cuối đời Đông Tấn. ## Thân thế Khải là thành viên của sĩ tộc
**Vương Cung** (chữ Hán: 王龚, ? – ?) tự Bá Tông, người Cao Bình, Sơn Dương , quan viên, tam công nhà Đông Hán. ## Thời Hán An đế Cung được sanh ra trong một
**Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội** là một công trình nổi tiếng của Giáo hội Công giáo Rôma ở thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ. Công trình
Nhà thờ San Marco **Vương cung thánh đường chính tòa thượng phụ Thánh Máccô** (tiếng Ý: _Basilica Cattedrale Patriarcale di San Marco_) tại Venezia, Ý, là bảo vật quốc gia của Cộng hòa Venezia cho
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang** (tên khác: **Nhà thờ La Vang**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Tổng giáo phận Huế, tọa lạc ở xã Hải Lăng, Quảng Trị, Việt
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, **Phú Nhai** (hay còn gọi là **Nhà thờ Phú Nhai** hoặc **Đền Thánh Phú Nhai**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Giáo phận
**Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô thành Assisi** (tiếng Ý: _Basilica Papale di San Francesco_, Latinh: _Basilica Sancti Francisci Assisiensis_) là nhà thờ mẹ của Dòng Anh Em Hèn Mọn thuộc Giáo hội Công giáo
**Vương cung thánh đường Sở Kiện** (_Duomo di Sở Kiện_, còn được gọi là **Nhà thờ Kẻ Sở**) là một nhà thờ Công giáo Rôma tọa lạc ở phường Châu Sơn, tỉnh Ninh Bình, thuộc
**Vương cung thánh đường Thánh Tôma** là một nhà thờ Công giáo Rôma tại vùng Santhome, Mylapore thuộc thành phố Chennai (tên cũ: Madras), thủ phủ tiểu bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Nhà thờ được
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần** bùng nổ vào tháng 8 ÂL năm 416, kéo dài đến tháng 8 ÂL năm 417, quen gọi là **chiến tranh Lưu Dụ diệt Hậu Tần** (chữ Hán:
**Vương cung Campuchia** ở thủ đô Phnôm Pênh là một tổ hợp các tòa nhà nơi Vương thất Vương quốc Campuchia được xây dựng từ hơn một thế kỷ trước để phục vụ việc ăn
**Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Văn Đông** (5 tháng 3 năm 1930 – 21 tháng 4 năm 2018) là cựu Trung tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng với Đại tá Nguyễn Chánh Thi lãnh đạo cuộc đảo
**Mạnh Sưởng** (chữ Hán: 孟昶, ? – 22 tháng 6, 410), người huyện An Khâu, quận Bình Xương, là tướng cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sưởng là hậu
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Tấn Thành Đế** () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là **Tư Mã Diễn** (司馬衍), tên tự **Thế Căn** (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là
**Cảnh Đức Vương** (trị vì 742-765) là người trị vì thứ 35 của vương quốc Tân La. Ngày nay, ông được biết đến nhiều với các nỗ lực nhằm khuyến khích Phật giáo. Ông có
**Vương Thanh** (chữ Hán: 王清, 894 – 946) tự Khứ Hà, người Khúc Chu, Minh Châu , tướng lãnh nhà Hậu Tấn đời Ngũ Đại trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Cha là
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王元, ? - ?), tên tự là **Huệ Mạnh** hay **Du Ông**, người Trường Lăng, quận Kinh Triệu, là tướng lãnh các lực lượng quân phiệt của Ngôi Hiêu ở Lũng
**Lã Động Tân** (; 796-?) hay **Lữ Động Tân**, tên húy là **Lã Nham** (呂嵒, hay 呂巖), tự **Động Tân**, đạo hiệu **Thuần Dương Tử**, còn có hiệu là **Hồi đạo nhân**, sinh ngày 14
**Vương Khải** (chữ Hán: 王恺, ? – ?), tự **Quân Phu**, người huyện Đàm, quận Đông Hải , quan viên, ngoại thích đời Tây Tấn. Ông từng thi giàu với Thạch Sùng và chịu thất
**Jeanne xứ Bourgogne** (; 24 tháng 6 năm 1293 - 12 tháng 12 năm 1349), còn được biết với biệt danh **Jeanne Què quặt** (tiếng Pháp: _Jeanne la Boiteuse_), là một Vương hậu của Pháp
**Vương Đôn** (; ? - 256?), là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Vương Đôn. Năm 220,
**Vương cung thánh đường Thượng phụ Santa Maria Assunta** () là một nhà thờ chính tòa nằm ở thị trấn Aquileia, thuộc tỉnh Udine, vùng Friuli-Venezia Giulia, đông bắc Ý. Nhà thờ ban đầu có
**Trần Cung** (chữ Hán: giản thể 陈宫 - phồn thể 陳宮) (? - 199), tên tự **Công Đài** (公臺), là một vị mưu sĩ phục vụ cho lãnh chúa Lã Bố vào cuối thời Đông
**Củng** (chữ Hán giản thể: 珙县, Hán Việt: _Củng huyện_) là một huyện của địa cấp thị Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 1.145,3 km2,
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Văn Vương** (trị vì 737 – 793) có tên là **Đại Khâm Mậu** (대흠무, 大祚榮, Dae Heum-mu), là vị vua thứ ba và có thời gian trị vì dài nhất của vương quốc Bột Hải.
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Loạn Bát vương** (Bát vương chi loạn; chữ Hán: 八王之亂) là loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, thời Tấn
**Bột Hải Thánh Tông** (trị vì 818 - 830) là vị quốc vương thứ 10 của vương quốc Bột Hải. Ông có tên thật là **Đại Nhân Tú** (대인수, 大仁秀, Dae In-su). Trong giai đoạn
**Tân La** (; ; Tiếng Triều Tiên cổ: 徐羅伐 Syerapel, Sïrapïr; Romaja: _Seorabeol_; IPA: ; 57 TCN – 935 CN) là một trong Tam Quốc Triều Tiên, và là một trong số các Triều đại
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Thánh Đức Vương** (trị vì 702–737) là quốc vương thứ 33 của vương quốc Tân La. Ông là vương tử thứ hai của Thần Văn Vương, và là đệ của Hiếu Chiêu Vương. Năm 704,
**Văn Vũ Vương** (trị vì 661–681), tên thật là **Kim Pháp Mẫn**, là quốc vương thứ 30 của Tân La. Ông thường được coi là người trị vì đầu tiên của thời kỳ Tân La
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
thumb|Vương Đạo **Vương Đạo** (chữ Hán: 王導, 276 - 339), tên tự là **Mậu Hoằng** (茂弘), nguyên quán ở huyện Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông, là đại thần, tể tướng dưới thời Đông Tấn trong
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch