✨Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần

Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần

Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần bùng nổ vào tháng 8 ÂL năm 416, kéo dài đến tháng 8 ÂL năm 417, quen gọi là chiến tranh Lưu Dụ diệt Hậu Tần (chữ Hán: 刘裕灭后秦之战, Lưu Dụ diệt Hậu Tần chi chiến). Đây là cuộc bắc phạt thứ 2 do Lưu Dụ - quyền thần nhà Đông Tấn - phát động nhằm giành lại khu vực Trung Nguyên đang bị chiếm đóng của các dân tộc phương bắc (Ngũ Hồ), kết quả tiêu diệt chính quyền Hậu Tần ở Quan Trung.

Bối cảnh và nguyên nhân

Nước Hậu Tần vào năm 400 khuất phục nước Tây Tần, vào năm 401 tiêu diệt Hậu Lương, trở thành một quốc gia lớn mạnh ở khu vực tây bắc Trung Quốc. Tuy nhiên, từ năm 409 đến năm 416, Hậu Tần nhiều lần bị quân Hạ đánh bại, tổn thất nặng nề, trở nên suy yếu.

Quyền thần Lưu Dụ nhà Đông Tấn vào năm 410 tiêu diệt Nam Yên, giành lại vùng Hoài Bắc; sau đó trấn áp thành công khởi nghĩa nông dân Lư Tuần, diệt trừ các thế lực chống đối trong nội bộ chính quyền là Lưu Nghị, Tư Mã Hưu Chi, cuối cùng bình định xong Ích Châu. Từ đó, chính quyền có được cục diện ổn định, tình hình kinh tế được cải thiện và thực lực quân sự được tăng cường.

Đầu năm 416, Tần đế Diêu Hưng băng, thái tử Diêu Hoằng nối ngôi. Nước Tần bên ngoài nhiều năm chinh chiến với các nước Hạ, Nam Lương, Tây Tần khiến cho quốc lực giảm sút; bên trong các hoàng tử và tông thất tranh giành ngôi vị, chính trị hỗn loạn, lòng người bất an. Lưu Dụ nhận định đây là thời cơ tốt nhất để tấn công Hậu Tần.

Kế hoạch và nhân sự

Đông Tấn: thủy lục cùng tiến

Tháng 8 ÂL năm 416 (năm Nghĩa Hi thứ 12 nhà Đông Tấn, năm Vĩnh Hòa đầu tiên nhà Hậu Tần), Lưu Dụ sắp đặt kế hoạch tác chiến như sau: đưa chủ lực từ sông Hoài, sông Tứ, men Hoàng Hà tây tiến, giành lấy trọng trấn Lạc Dương; một cánh quân từ Vũ Quan tiến đánh, nhằm khống chế quân Hậu Tần ở Quan Trung; sau đó toàn quân tấn công Đồng Quan , nhằm thẳng vào Trường An. Phân phối lực lượng như sau:

  • Lấy Long tương tướng quân Vương Trấn Ác, Quan quân tướng quân Đàn Đạo Tế theo đường bộ làm tiền phong, từ Thọ Dương men sông Hoài, sông Phì tiến đánh Hứa Xương , Lạc Dương . Vương Trấn Ác từ sông Phì ra Thương Khâu, nhắm vào Huỳnh Dương ; Đàn Đạo Tế từ sông Dĩnh ra Hạng Thành , nhắm vào Hứa Xương, hội quân Lạc Dương, đợi chủ lực của Lưu Dụ đến, mới tiếp tục tây tiến.
  • Lấy Kiến vũ tướng quân Thẩm Lâm Tử, Bành Thành nội sử Lưu Tuân Khảo soái thủy quân theo lối Bành Thành vượt sông Biện ra Thạch Môn , vào Hoàng Hà, vừa tiến chiếm Lạc Dương từ mặt bắc, vừa ngăn trở quân Bắc Ngụy nam hạ đón đánh quân Tấn.
  • Lấy Tân Dã thái thú Chu Siêu Thạch, Ninh sóc tướng quân Hồ Phiên đưa quân ra Tương Dương , đi Dương Thành , vừa ngăn quân Tần ở Quan Trung cứu viện Lạc Dương, vừa hỗ trợ quân tiền phong tiến chiếm Lạc Dương từ mặt nam.
  • Lấy Chấn vũ tướng quân Thẩm Điền Tử, Kiến uy tướng quân Phó Hoằng Chi đưa quân theo lối Tương Dương đi Vũ Quan, nhằm khống chế quân Tần ở Quan Trung.
  • Lệnh Ký Châu thứ sử Vương Trọng Đức tổng đốc các cánh quân tiền phong, rồi soái thủy quân theo lối Bành Thành vượt sông Tứ, khai thông chằm Cự Dã vào Hoàng Hà, đề phòng quân Bắc Ngụy vượt Hoàng Hà nam tiến.
  • Lưu Dụ tự lãnh chủ lực theo sau Vương Trọng Đức, nhưng vào Hoàng Hà rồi sẽ tiếp tục tây tiến Lạc Dương chứ không dừng lại.

Hậu Tần: 2 mặt tác chiến

Khi quân Tấn đến Hứa Xương, chiến sự giữa Hậu Tần với Hạ, Tây Tần vẫn chưa dứt. Đông Bình công Diêu Thiệu kiến nghị tập trung toàn lực đối phó Đông Tấn, dời dân từ An Định về kinh sư, như thế có thể tập hợp 10 vạn tinh binh, đủ để chống lại cuộc tấn công của cả hai nước Hạ, Tấn. Nhưng tả bộc xạ Lương Hỷ cho rằng tướng giữ An Định là Tề công Diêu Khôi có uy danh, nhân dân An Định căm thù quân Hạ, có thể kiên thủ; nếu bỏ An Định, ắt người Hạ lấn đến huyện Mi ; vả quân đội ở Quan Trung đủ chống lại quân Tấn.

Tần đế Diêu Hoằng theo lời ấy, quyết định đối sách là chấp nhận tác chiến cả hai mặt: một mặt bảo vệ An Định ở tây bắc, ngăn giữ quân Hạ; một mặt củng cố các cứ điểm trọng yếu Trường An, Lạc Dương, Đồng Quan, Vũ Quan, chống lại quân Tấn tây tiến.

Diễn biến và kết quả

Quân Tấn chiếm Lạc Dương

Tháng 9 ÂL, các lộ tiền phong đều tiến quân thuận lợi. Bấy giờ quân Tần 3 châu Dự, Từ, Duyện phía đông Đồng Quan yếu kém, phòng bị lỏng lẻo. Vương Trấn Ác, Đàn Đạo Tế sau khi vào được nội địa của Tần, liên tiếp báo tiệp. Tướng Tần là Vương Cẩu Sanh dâng Tất Khâu hàng Vương Trấn Ác, Từ Châu thứ sử Diêu Chưởng đem Hạng Thành hàng Đàn Đạo Tế, các cứ điểm khác nối nhau xin hàng. Đàn Đạo Tế phá Tân Thái , bắt giết thái thú Đổng Tuân, tiến hạ Hứa Xương, bắt sống Dĩnh Xuyên thái thú Diêu Viên cùng đại tướng Dương Nghiệp của Tần. Thẩm Lâm Từ từ sông Biện vào Hoàng Hà, đánh hạ Thương Viên , thu hàng Duyện Châu thứ sử Vi Hoa của Tần. Vương Trọng Đức soái thủy quân vào Hoàng Hà, mượn đường Hoạt Đài của Bắc Ngụy, tướng giữ thành Úy Trì Kiến đưa dân quân bỏ thành vượt sang bờ bắc Hoàng Hà, chạy về phía tây; Trọng Đức tiến vào Hoạt Đài.

Tháng 10 ÂL, Vương Trấn Ác, Đàn Đạo Tế hội quân ở Thành Cao , 2 thành Dương Thành, Huỳnh Dương đều hàng. Tướng giữ Lạc Dương là Chinh nam tướng quân Diêu Quang cầu cứu Trường An, Tần đế Diêu Hoằng phái Việt kị hiệu úy Diêm Sanh soái 3000 kỵ binh, Vũ vệ tướng quân Diêu Ích Nam soái 1 vạn bộ binh đi giúp; đồng thời sai Tịnh Châu mục Diêu Ý từ Bồ Phản tiến đến đồn trú Thiểm Tân (tức Mao Tân) làm hậu viện. Bộ tướng của Diêu Quang là Ninh sóc tướng quân Triệu Huyền đề nghị dồn binh cố thủ Kim Dung để đợi viện quân, nhưng tư mã Diêu Vũ, chủ bạc Diêm Khôi, Dương Kiền – vốn có hiềm khích với Huyền, lại tư thông với Đàn Đạo Tế - nên ra sức phản đối, còn đề nghị chia quân trấn giữ các nơi hiểm yếu. Quang trúng kế: mệnh Triệu Huyền soái hơn ngàn người giữ Bách Cốc Ổ ở phía nam, Quảng vũ tướng quân Thạch Vô Húy giữ Củng Thành ở phía đông. Không lâu sau, Thành Cao, Hổ Lao nối nhau hàng Tấn. Bọn Vương Trấn Ác, Đàn Đạo Tế, Thẩm Lâm Tử tiến quân thuận lợi, Thạch Vô Húy lui về Lạc Dương, Triệu Huyền tử trận. Đàn Đạo Tế uy hiếp Lạc Dương, Diêu Quang ra hàng, hơn 4000 quân Tần bị bắt. Viện quân Tần của bọn Diêm Sanh, Diêu Ích Nam giữa đường nghe tin đều dừng lại. Tây Tần vương Khất Phục Sí Bàn thừa cơ chiếm Mã Đầu , uy hiếp Thượng Bang của Tần.

Giằng co ở Đồng Quan

Tháng 12 ÂL, Khất Phục Sí Bàn sai sứ gặp Lưu Dụ, xin đánh Tần lập công, được phong Bình Tây tướng quân, Hà Nam công. Trong khi đó, Hậu Tần phát sinh liên tiếp 2 cuộc nội loạn (Diêu Ý vào tháng 11 ÂL, Diêu Khôi vào tháng giêng ÂL). Từ trước Lưu Dụ đã lệnh cho quân tiền phong sau khi chiếm được Lạc Dương thì dừng lại, đợi đại quân đến hội hợp mới tiến đánh. Nhưng Vương Trấn Ác thấy nước Tần có loạn, Đồng Quan trống rỗng, bèn thừa cơ tiến quân, vào tháng 2 ÂL tấn công Thằng Trì , sai Mao Đức Tổ đánh thành Lễ Ngô , đưa quân gấp đi Đồng Quan. Đàn Đạo Tế, Thẩm Lâm Tử cũng từ phía bắc huyện Thiểm vượt Hoàng Hà, đánh hạ Tương Ấp Bảo , rồi tấn công Bồ Phản của Tịnh Châu thứ sử Doãn Chiêu, không hạ được, chuyển sanh đánh Hung Nô Bảo , bị Diêu Thành Đô đẩy lui. Lúc này, Diêu Hoằng lấy Diêu Thiệu làm Thái tể, Đại tướng quân, đô đốc Trung ngoại chư quân sự, cải phong Lỗ Công, soái bọn Vũ vệ tướng quân Diêu Loan đưa 5vạn bộ kỵ phòng thủ Đồng Quan, lại mệnh Diêu Lư đưa quân tăng viện Bồ Phản. Thẩm Lâm Tử cho rằng Bồ Phản thành chắc binh nhiều, không dễ hạ được, chẳng bằng hợp lực với Vương Trấn Ác lấy Đồng Quan, Đồng Quan đã bị phá, Doãn Chiêu không đánh cũng tự tan; Đàn Đạo Tế đồng ý. Vì thế Thẩm – Đàn xua quân nam hạ, hội quân với Vương Trấn Ác.

Tháng 3 ÂL, bọn Vương Trấn Ác đến Đồng Quan; Diêu Thiệu ra đánh, thua trận, tổn thất hơn ngàn người, lui về Định Thành (phía tây Đồng Quan). Một mặt Diêu Thiệu dựa vào địa thể hiểm yếu mà cố thủ, một mặt phái Diêu Loan chẹn đường lớn, cắt đứt đường vận lương của Tấn. Bộ tướng của Loan là Doãn Nhã bị quân Tấn bắt sống ở phía nam Đồng Quan; đến ngày mùng 4, Thẩm Lâm Tử tập kích doanh trại của Loan, giết chết Loan. Diêu Thiệu sai Đông Bình công Diêu Tán đóng quân ở thượng du Hoàng Hà, hòng chẹn đường thủy của Tấn, Thẩm Lâm Tử lại tiến đánh, Tán thua chạy về Định Thành. Lúc này, Tiết Bạch (vốn là Hà Bắc thái thú của Tần, đã trốn đi Hà Đông) dâng thành Hà Khúc hàng Tấn. Không lâu sau, quân Tấn hết lương, nhiều người đề nghị lui về phía đông hội họp với đại quân, Thẩm Lâm Tử kịch liệt phản đối, mọi người mới trấn định trở lại. Bọn họ cầu cứu Lưu Dụ, xin phát binh vận chuyển lương thảo, nhưng Lưu Dụ đang bị người Bắc Ngụy uy hiếp, nên từ chối. Bọn Vương Trấn Ác tự thân đến Hoằng Nông , động viên dân chúng quyên hiến lương thảo, mới hóa giải được nguy cơ, ổn định lòng quân.

Tháng 4 ÂL, Diêu Thiệu lại mệnh trưởng sử Diêu Trì, Ninh sóc tướng quân An Loan, Hộ quân Diêu Mặc Lễ, Hà Đông thái thú Đường Tiểu Phương soái 2000 người đóng đồn giữ Cửu Nguyên của Hà Bắc, ý đồ lần nữa cắt đứt đường vận lương của quân Tấn, lại bị Thẩm Lâm Tử đánh bại, Diêu Trì, Diêu Mặc Lễ, Đường Tiểu Phương bị chém chết, toàn quân bị tiêu diệt. Diêu Thiệu nghe tin thất bại, phẫn uất đến nỗi nôn ra máu, trao lại binh quyền cho Diêu Tán rồi chết. Diêu Tán soái quân tập kích Thẩm Lâm Tử nhưng thất bại, quay ra cố thủ, giằng co với quân Tấn.

Quân Tấn đẩy lui quân Bắc Ngụy

Tháng 9 ÂL năm 416, Lưu Dụ soái đại quân đến Bành Thành. Tháng giêng năm 417, Lưu Dụ theo đường thủy từ Bành Thành tây tiến.

Tháng 3 ÂL, Lưu Dụ soái thủy quân từ Hoài, Tứ vào Thanh Hà, sắp ngược dòng Hoàng Hà tây tiến. Ngày mùng 8, Lưu Dụ sai tả tướng quân Hướng Di đưa 1 cánh quân đóng đồn ở Nghiêu Ngao , còn mình soái chủ lực tiếp tục tây tiến; Bắc Ngụy Minh Nguyên đế đồng ý với Thôi Hạo: Hậu Tần diệt vong là khó tránh khỏi, còn quân đội Bắc Ngụy vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc chiến với Đông Tấn; nhưng Minh Nguyên đế cho rằng vừa phải đề phòng quân Tấn lấn đất như trường hợp Hoạt Đài, vừa phải hư trương thanh thế tránh tiếng xấu không cứu Tần (Minh Nguyên đế là con rể của Tần đế Diêu Hưng), bèn lấy tư đồ Bạt Bạt Tung làm đốc Sơn Đông chư quân sự, soái 10 vạn bộ kỵ đóng ở bắc Hoàng Hà, sai mấy ngàn kỵ binh men theo bờ sông đi theo quân Tấn, giết hết những người Tấn đơn lẻ đặt chân lên bờ bắc, thường xuyên khiêu khích, quấy nhiễu, hòng ngăn trở quân Tấn tây tiến. Lưu Dụ muốn chấm dứt sự uy hiếp này, mấy lần phát binh lên bờ, nhưng quân Ngụy đều tránh đối đầu.

Tháng 4 ÂL, Lưu Dụ sai Bạch trực đội chủ Đinh Ngổ đưa 700 người và trăm cỗ xe lên bờ bắc, dùng chiến xa, cung nỏ và mâu dài bày trận hình trăng khuyết, tiến quân một cách chắc chắn. Bạt Bạt Tung điều 3 vạn kỵ binh đến đánh, tướng Tấn là bọn Chu Siêu Thạch đưa gấp mấy ngàn dũng sĩ đến giúp Đinh Ngổ. Đôi bên giao chiến, quân Ngụy đại bại, tướng Ngụy là A Bạc Kiền bị giết. Chu Siêu Thạch soái Hồ Phiên, Ninh viễn tướng quân Lưu Vinh Tổ đuổi theo, giết hơn ngàn người.

Trung tuần tháng 4, Lưu Dụ tiến đến Lạc Dương, dừng lại 2 tháng để thiết lập căn cứ vững chắc, đề phòng quân Bắc Ngụy tập kích. Tuy nhiên, quân Bắc Ngụy không có thêm hành động quân sự nào khác. Tháng 7 ÂL, Lưu Dụ tiến đến huyện Thiểm.

Ngày 1 tháng 8 ÂL, Lưu Dụ tiến đến Văn Hương . Ngày 2 tháng 8, Lưu Dụ vào Đồng Quan, lập tức lấy Chu Siêu Thạch làm Hà Đông thái thú, mệnh Siêu Thạch cùng Chấn vũ tướng quân Từ Y Chi ở bờ bắc Hoàng Hà hợp quân với Tiết Bạch, tấn công Bồ Phản. Tướng Tần là Bình Nguyên công Diêu Phác và Diêu Hòa Đô (em Diêu Thành Đô) đánh bại quân Tấn, giết Từ Y Chi, Chu Siêu Thạch trốn về Đồng Quan. Diêu Tán biết tin quân Tấn của Vương Trấn Ác uy hiếp Trường An, bèn soái quân từ Định Thành lui về Trịnh Thành . Lưu Dụ đưa đại quân theo sát phía sau.

Quân Tấn đại thắng ở Nghiêu Liễu

Tháng 7 ÂL, Thẩm Điền Tử, Phó Hoằng Chi tiến vào Vũ Quan, tướng Tần giữ thành bỏ trốn. Bọn Điền Tử tiến chiếm Thanh Nê , tướng Tần là Cấp sự Hoàng môn thị lang Diêu Hòa Đô đóng đồn ở Nghiêu Liễu chống lại quân Tấn.

Tháng 8 ÂL, Lưu Dụ đến Văn Hương, lo bọn Điền Tử ít quân, sai Thẩm Lâm Tử đến chi viện. Trong khi đó, Tần đế Diêu Hoằng vốn muốn đón đánh Lưu Dụ ở Định Thành để giành lại Đồng Quan, nhưng e ngại bọn Điền Tử ở phía sau, nên quyết định trước tiên phải tiêu diệt bọn Điền Tử. Diêu Hoằng tự soái mấy vạn kỵ binh, bất ngờ tiến đến Thanh Nê. Thẩm Điền Tử muốn nhân lúc quân Tần chưa vững chân mà tấn công, nhưng Phó Hoằng Chi phản đối, vì cho rằng địch nhiều ta ít, khó lòng thành công. Điền Tử soái quân bản bộ tấn công quân Tần, giết hơn vạn người, Diêu Hoằng bỏ chạy về Trường An. Khi Lâm Tử đến nơi thì Điền Tử đã thắng trận. Bọn Điền Tử và Lâm Tử hợp quân đuổi đánh, quận huyện Quan Trung nối nhau xin hàng. Điền Tử muốn tấn công Trường An, nhưng Lâm Tử ngăn lại, có ý nhường việc đó cho Lưu Dụ.

Quân Tấn chiếm Trường An

Tháng 8 ÂL, Vương Trấn Ác thủy quân từ Hoàng Hà vào Vị Thủy, uy hiếp Trường An. Sau khi Trấn Ác xuất phát, tướng Tần là Khôi vũ tướng quân Diêu Nan từ Hương Thành rút về phía tây, Trấn Ác đuổi theo. Diêu Hoằng soái quân từ Bá Thượng đến Thạch Kiều , tiếp ứng Diêu Nan; lấy Trấn bắc tướng quân Diêu Cương cùng Diêu Nan hợp quân giữ Kính Thượng , đón đánh Vương Trấn Ác. Trấn Ác mệnh Mao Đức Tổ tấn công, đánh bại quân Tần, giết Diêu Cương, còn Diêu Nan chạy thoát về Trường An.

Tần đế Diêu Hoằng mệnh Diêu Phi giữ Vị Kiều (bắc Trường An), Hồ Dực Độ giữ Thạch Tích (đông bắc Trường An), Diêu Tán giữ Bá Đông (bờ đông sông Bá), còn Hoằng tự giữ Tiêu Dao Viên (tây Trường An). Ngày 23 tháng 8 ÂL, Vương Trấn Ác ngồi hạm nhỏ Mông xung tiến đến Vị Kiều, bỏ thuyền lên bờ. Do nước chảy xiết, phần lớn thuyền hạm bị cuốn trôi, Trấn Ác nhân đó khích lệ sĩ tốt liều chết chiến đấu, rồi tự mình đi đầu, tấn công Diêu Phi. Diêu Phi thua trận, Diêu Hoằng đến cứu, 2 cánh quân xô vào nhau dẫn đến hỗn loạn, không đánh mà tan, Diêu Hoằng một ngựa chạy về cung. Diêu Tán nghe tin đến cứu, nhưng quân đội của Tán cũng tan rã bỏ trốn.

Ngày 24, Diêu Hoằng đưa quần thần ra hàng Vương Trấn Ác. Nhà Hậu Tần diệt vong, còn Hồ Dực Độ đầu hàng Lưu Dụ. Sau đó, Diêu Phác, Doãn Chiêu ở Bồ Phản cùng Diêu Tán đưa tông tộc đến hàng, Lưu Dụ đều giết đi, còn Diêu Hoằng bị chém ở Kiến Khang. Anh em Diêu Thành Đô, Hòa Đô chạy thoát sang Bắc Ngụy.

Đánh giá

Trong cuộc chiến này, Đông Tấn quyền thần Lưu Dụ nắm rõ thời cơ, sắp xếp chu đáo, chính trị - quân sự đều đắc thế. Thủy lục quân Đông Tấn phối hợp chặt chẽ, các tướng soái ứng biến linh hoạt, dũng cảm, giành được thắng lợi chung cục. Tần đế Diêu Hoằng quyết định chiến lược sai lầm, khiến quân Hậu Tần bố phòng dàn trải, từng bước dẫn đến thất bại; lại thêm nội loạn bùng phát, nên không thể tránh khỏi tai họa diệt vong.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần** bùng nổ vào tháng 8 ÂL năm 416, kéo dài đến tháng 8 ÂL năm 417, quen gọi là **chiến tranh Lưu Dụ diệt Hậu Tần** (chữ Hán:
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950**, còn gọi là **_Chiến dịch Lê Hồng Phong 2_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
**Nam Bộ kháng chiến** là xung đột quân sự giữa Việt Nam và liên quân Anh, Pháp, Nhật bắt đầu xảy ra trước khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, được lấy mốc là ngày
**Toàn quốc kháng chiến** là cách gọi để nói tới sự kiện ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi cuộc chiến đấu giữa Quân đội Pháp và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Chiến dịch Hà Nam Ninh** (còn gọi là **chiến dịch Quang Trung**) tiến hành từ 28-5 đến ngày 20 tháng 6 năm 1951, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực
**Chiến dịch Hòa Bình** (10 tháng 12 năm 1951 - 25 tháng 2 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (Việt Minh) ở khu vực thị xã Hoà
**Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947** là chiến dịch phản công của lực lượng vũ trang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước **Cuộc hành quân Léa** do quân đội Pháp thực
**Chiến dịch Trần Hưng Đạo** hay **Chiến dịch Trung du** là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào phòng tuyến trung du Bắc Bộ của quân Liên
**_Hà Nội mùa đông năm 46_** (, ) là một phim chiến tranh cách mạng do Đặng Nhật Minh biên kịch và đạo diễn, xuất phẩm ngày 12 tháng 12 năm 1997 tại Liên hoan
**Chiến dịch Tây Bắc** (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu
**Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến** (có tài liệu gọi là **Chính phủ Liên hiệp Quốc gia**) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của
**Chiến dịch Lý Thường Kiệt** tiến hành từ 25-9 đến 10-10-1951, do Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến hành nhằm chiếm vùng thung lũng Nghĩa Lộ của thực dân Pháp ở mặt trận Tây
**Bán đảo Đông Dương** (, _Indochina_), hoặc gọi **bán đảo Ấn-Trung**, **Đông Nam Á lục địa**, là một bán đảo nằm ở Đông Nam Á, là một trong ba bán đảo lớn ở phía nam
**Chiến dịch Đông Bắc II** là một chiến dịch quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mở ra nhằm mục tiêu phân tán lực lượng của Pháp, giành lấy chiến thắng chiến lược
Trong 10 năm (1944-1954), thành lập từ một"con số 0", Quân đội nhân dân Việt Nam đã phải đối mặt với những lực lượng quân sự mạnh trên thế giới trong đó có quân đội
**Chiến dịch Hoàng Hoa Thám** là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực Hải Phòng thuộc đồng bằng Bắc Bộ do quân Liên hiệp Pháp
**Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba** là một loạt các cuộc xung đột và chiến tranh giữa các lực lượng cộng sản của Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc từ năm 1975 tới năm
**Chiến dịch Đông Bắc I** là một "chiến dịch nhỏ" trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra từ ngày 8 tháng 10 đến ngày 7 tháng 12 năm 1948. Hai bên tham
**Da vàng hóa chiến tranh** hay **Vàng hóa chiến tranh** là một chiến lược quân sự mà thực dân Pháp sử dụng trong quá trình xâm chiếm Việt Nam thế kỷ 19 chống lại nhà
**Lý Khôi** (, 455 TCN - 395 TCN) là nhà tư tưởng, chính trị gia nổi tiếng thời Chiến Quốc. Ông từng làm quan thú đất Thượng Địa rồi làm tướng quốc cho Ngụy Văn
**_Dòng máu anh hùng_** (tựa tiếng Anh: **_The Rebel_**) là một bộ phim điện ảnh hành động võ thuật Việt Nam năm 2006 do Chánh Phương Film và Cinema Pictures hợp tác sản xuất. Phim
**Áo lụa Hà Đông** (tựa tiếng Anh: **The White Silk Dress**) là một bộ phim chiến tranh - tâm lý - tình cảm Việt Nam dài 142 phút của đạo diễn Lưu Huỳnh thực hiện,
**Hổ Đông Dương** hay **hổ Corbett** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris corbetti_**) là một phân loài hổ sống chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, được tìm thấy tại Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan
**Chiến dịch tây nam Ninh Bình** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Đông Dương. Khởi nguồn từ hai cuộc hành quân lớn của quân đội Pháp là **cuộc hành quân Mouette** (Hải âu)
**Trường kỳ kháng chiến** là một trong bốn **Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp** của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với nội dung này, các lực lượng cộng sản
**Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông** (tiếng Pháp: **Corps Expéditionnaire Français en Extrême-Orient**, tắt là **CEFEO**) là một lực lượng quân đội viễn chinh của quân đội Liên hiệp Pháp thành lập ở
**Chiến dịch Nghĩa Lộ** 1948. Bắt đầu từ ngày 18/4/1948 Kết thúc ngày 01/5/1948 Từ cuối năm 1947, đầu năm 1948 Pháp kiểm soát được hầu hết các tỉnh lỵ, thị xã, thị trấn và
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
**Chiến tranh Hoa Hồng** là một loạt các cuộc nội chiến tranh giành vương vị nước Anh giữa những người ủng hộ hai dòng họ Lancaster và York. Cuộc chiến diễn ra trong các giai
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế