✨Toàn quốc kháng chiến

Toàn quốc kháng chiến

Toàn quốc kháng chiến là cách gọi để nói tới sự kiện ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi cuộc chiến đấu giữa Quân đội Pháp và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bùng nổ tại bắc vĩ tuyến 16, tức là toàn Việt Nam.

Từ ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một loạt các trận đánh nổ ra trên các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng). Trong cuộc chiến này, Quân đội quốc gia Việt Nam (Vệ quốc đoàn đổi tên từ 22 tháng 5, 1946) đã đồng loạt tiến công vào các vị trí của quân Pháp tại các đô thị miền Bắc Đông Dương, bao vây quân Pháp trong nhiều tháng để cho các cơ quan chính quyền lui về chiến khu. Nhiều nhà sử học coi mốc này là khởi điểm cho cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.

Bối cảnh

Sau khi giành được độc lập từ tay Phát xít Nhật Bản, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp khó khăn với những đoàn quân giải giáp phát xít của Đồng Minh. Đặc biệt là đằng sau đó là quân đội Pháp, được coi là "ông chủ cũ" của xứ Đông Dương. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tìm mọi cách cứu vãn hòa bình, chí ít cũng làm chậm lại chiến tranh để chuẩn bị đối phó, đồng thời khéo léo tìm được thế bắt đầu chiến tranh tốt nhất có thể (hay là ít xấu nhất). Hiệp định sơ bộ (6 tháng 3 năm 1946) rồi Tạm ước Việt – Pháp (14 tháng 9 năm 1946) lần lượt được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán. Quân Tưởng Giới Thạch phải theo các điều ước rút về nước, thay thế bằng 15.000 quân Pháp.

Bất chấp các giao kèo giữa hai Chính phủ, 10 tháng 4 năm 1946, tướng Valluy, Tổng chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương thông qua "phương án 2", thứ được Chính phủ Việt Nam gọi là Un scénario de coup d'Etat (kịch bản của cuộc đảo chính) với mục tiêu "loại bỏ ông Hồ Chí Minh và Việt Minh". Mục tiêu đó được cụ thể hóa bằng nhiều vụ xung đột về cả chính trị lẫn quân sự và không chỉ ở phía nam vĩ tuyến 16, hòng khiêu khích Chính phủ Hồ Chí Minh phát động chiến tranh. Các vụ xung đột liên tiếp xảy ra ở bắc vĩ tuyến 16 do quân Pháp gây hấn: Lai Châu, Bắc Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, Hồng Gai, Hải Dương và ngay cả tại Thủ đô Hà Nội. Đặc biệt quân Pháp gây ra nhiều vụ thảm sát ở khu vực Hải Phòng, và các khu Hàng Bún, Yên Ninh (Hà Nội).

Ngày 20 tháng 11 năm 1946, người Hải Phòng tổ chức biểu tình phản đối các nhân viên hải quan Pháp tại thành phố. Để giải quyết tình hình Hồ Chí Minh đề nghị phía Pháp phương án nhân sự hỗn hợp Việt–Pháp trong các cơ quan hải quan nhưng phía Pháp kiên quyết từ chối. Ngay 22 tháng 11, tướng Valluy đánh điện ra lệnh cho Đại tá Dèbes, Tư lệnh quân đội Pháp tại Hải Phòng bằng mọi giá phải giành quyền làm chủ Hải Phòng. Tới ngày 23 tháng 11, Dèbes huy động 3 chiến hạm nã pháo vào Hải Phòng. Sau đó, Paul Mus (cố vấn chính trị của tướng Leclerc) thông báo với đô đốc Battet rằng vụ pháo kích đã khiến 6000 người thiệt mạng, chủ yếu là dân thường. Đây chính là sự kiện làm khơi mào cho cuộc kháng chiến toàn quốc ở Việt Nam.

Thảm sát ngã ba phố Hàng Bún - ngõ Yên Ninh ngày 17 tháng 12 năm 1946 trở thành giọt nước làm tràn ly khi hành động gây hấn của Pháp đi quá giới hạn chịu đựng của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, ngày 18 tháng 12, tướng Pháp Molière gửi hai tối hậu thư liên tiếp đòi tước vũ khí của bộ đội và dân quân tự vệ Việt Nam, nắm quyền kiểm soát thành phố. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh triệu tập khẩn cấp Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản (bí mật) họp tại Vạn Phúc, Hà Đông. Hội nghị thông qua quyết định phát động chiến tranh. Đối với Quốc hội, do Hiến pháp Việt Nam quy định Chủ tịch nước trong trường hợp khẩn cấp có thể phát động chiến tranh mà không cần phải thông qua Nghị viện. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn bạc với Chính phủ và Ban thường trực Quốc hội và nhanh chóng được đồng ý.

20 giờ 3 phút ngày 19 tháng 12 năm 1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ tiến hành cắt điện, tiếng súng nổ ra tại Hà Nội. Tiếp đó, ngày 20 tháng 12 tại hang Trầm (huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch. Đây được coi là mệnh lệnh phát động kháng chiến và cuộc chiến tranh bắt đầu.

Tương quan lực lượng

Theo kế hoạch của Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam, các khu mở đợt tiến công vào các vị trí đóng quân của Pháp ở bắc vĩ tuyến 16:

  • Bắc Giang, Bắc Ninh, Cầu Đuống, Hải Dương, Nam Định: Tiêu diệt một bộ phận quân địch. Theo quan điểm của thì quân số Pháp có thể lên tới 25.000. Lực lượng đóng giữ ở các đô thị như sau: Hà Nội (6.500), Hải Phòng (chưa rõ), Hải Dương (1 tiểu đoàn và 3 trung đội), Bắc Ninh và Bắc Giang (1 tiểu đoàn), Nam Định (650), Vinh (1 trung đội), Huế (750), Đà Nẵng (6.500); chưa tính số kiều dân vũ trang và các đơn vị "phỉ" (các đạo quân người dân tộc thiểu số theo Pháp); chiếm ưu thế tuyệt đối về vũ khí, trang bị.

Lực lượng chủ lực của Việt Nam ở Hà Nội có 5 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 191, 77, 145, 523, 56), Hải Phòng có 1 trung đoàn (Trung đoàn 42), Hải Dương có 1 trung đoàn (Trung đoàn 44), Bắc Ninh và Bắc Giang có 1 trung đoàn (Trung đoàn Bắc Bắc), Nam Định có 1 Trung đoàn (Trung đoàn 34), Vinh có 1 đại đội (thuộc Trung đoàn 57), Huế có 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn (Trung đoàn Trần Cao Vân, Tiểu đoàn Tiếp phòng quân Thuận Hóa, Tiểu đoàn 16), Đà Nẵng có 2 trung đoàn (Trung đoàn 93, 95), chưa tính số công an vũ trang, dân quân, tự vệ. Vũ khí, trang bị không thống nhất, chỉ đáp ứng tối đa 75% quân số (thường chỉ từ 1/3 đến 2/3 đơn vị

Diễn biến

Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ

20 giờ 3 phút ngày 19 tháng 12 năm 1946, đèn điện ở Hà Nội vụt tắt, pháo đài Láng nổ phát súng lệnh tổng công kích, chính thức báo hiệu toàn quốc kháng chiến. Quân đội và dân quân Việt Nam mở cuộc tấn công đồng loạt vào 21 vị trí đóng quân của Pháp. Ngày 6 tháng 1 năm 1947, các đơn vị Việt Nam được thống nhất biên chế thành một Trung đoàn mang tên Trung đoàn Liên khu 1 (từ 12 tháng 1 đổi tên thành Trung đoàn Thủ đô).

Tại Hải Phòng, các đơn vị vũ trang Việt Nam đóng giữ ở các vị trí xung quanh thành phố. 6 giờ ngày 20 tháng 12 năm 1946, quân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn nhằm phá vỡ vòng vây hòng chi viện cho lực lượng ở Hà Nội. Ngày 21 tháng 12, quân đội Việt Nam ở tỉnh Hải Dương phá được cứ điểm trường Con Gái, khiến quân Pháp ở đây có nguy cơ bị tiêu diệt. Ngày 22 tháng 12, quân Pháp ở Hải Phòng phá vây thành công, điều lực lượng đến Hải Dương thì bị lực lượng Việt Nam cản bước. Ngày 23 tháng 12, quân Việt Nam rút khỏi tỉnh lỵ Hải Dương. Ngày 30 tháng 12, quân Pháp bị đánh bật khỏi Bắc Ninh, quân Việt Nam quyết định phá hoại đoạn đường 5 đi qua đây, khiến cho quân Pháp phải đến giữa tháng 1 năm 1947 mới có thể thông đường chi viện Hà Nội.

Sau khi quân đội Việt Nam rút khỏi Hà Nội, quân Pháp cho quân càn quét Bắc Ninh, Bắc Giang. Tại Hải Phòng, tháng 3 năm 1947, quân Pháp về cơ bản hoàn thành việc khống chế thành phố, và bắt đầu mở rộng chiến cuộc ra khu vực Quảng Yên. Đêm 23 tháng 3, quân đội Việt Nam mở cuộc tấn công lớn vào nội thành Hải Phòng, buộc quân Pháp phải bỏ dở cuộc càn quét vào Đông Triều, Chí Linh, nhưng đây cũng là đợt công kích lớn cuối cùng. Ngày 25 tháng 4, quân Pháp chiếm được thị xã Kiến An và bán đảo Đồ Sơn.

Nam Định là đô thị lớn cuối cùng kết thúc chiến đấu. 0 giờ 30 phút ngày 20 tháng 12 năm 1946, quân dân Việt Nam bắt đầu tấn công và bao vây quân Pháp ở thành phố Nam Định. Cuộc chiến kéo dài trong 3 tháng, 86 ngày đêm, quân Pháp nhiều lần điều động lực lượng đến phá vây nhưng bất thành, buộc phải dùng máy bay để thả hàng tiếp tế cho các đơn vị bị bao vây. Ngày 6 tháng 1 năm 1947, các đơn vị Việt Nam đã đánh bại một lực lượng lớn quân Pháp và được Quốc hội cùng Chính phủ gửi điện khen ngợi. Ngày 6 tháng 3, quân Pháp điều 1.500 binh sĩ, 120 xe cơ giới, 2 tàu chiến, 4 ca nô cùng máy bay từ Hà Nội xuống cứu Nam Định. Ngày 10 tháng 3, viện quân Pháp mở cuộc tấn công vào thành phố, quân đội Việt Nam chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng. Ngày 15 tháng 3 năm 1947, đơn vị Việt Nam cuối cùng rút khỏi Nam Định.

Bắc Trung Bộ

Ở Bắc Trung Bộ, rạng sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, cụ thể là 2 giờ ở Đà Nẵng và 2 giờ 30 phút ở Huế, quân đội Việt Nam tấn công ồ ạt vào các cứ điểm của quân Pháp. 1 giờ sáng, trung đội Pháp ở Vinh đầu hàng. Phía Việt Nam lập tức điều động một số đơn vị vũ trang của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh bổ sung cho mặt trận Trị Thiên Huế. Ở Huế, quân Pháp chịu thiệt hại nặng và bị cô lập trong nhiều ngày.

Ngày 22 tháng 12, do chênh lệch lớn về lực lượng, quân đội Việt Nam ở Đà Nẵng rút khỏi nội thành. Từ 23 tháng 12 đến 7 tháng 1 năm 1947, quân Pháp đánh ra phía tây Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 1, một số đơn vị Pháp từ Lào tấn công miền tây Quảng Trị, lần lượt chiếm đóng Khe Sanh, Cam Lộ, Đông Hà. Ngày 15 tháng 1, quân Pháp nghi binh ở miền đông Đà Nẵng, tập trung lực lượng đánh ra đèo Hải Vân để mở đường cứu viện cho các đơn vị tại Huế đang bị bao vây. Ngày 17 tháng 1, Pháp tập trung khoảng 8 nghìn quân đánh ra đèo Hải Vân nhưng bị chống trả quyết liệt. Ngày 6 tháng 2, lực lượng Pháp trong và ngoài thành gặp nhau. Căn cứ vào tình hình cụ thể, Bộ Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên Huế của quân đội Việt Nam quyết định rút quân khỏi nội thành Huế, lập phòng tuyến sông Gianh - đèo Ngang (Quảng Bình).

Sau khi kiểm soát Huế và Đà Nẵng, ngày 27 tháng 3, quân Pháp mở nhiều cuộc tấn công lớn đánh chiếm các huyện còn lại của tỉnh Quảng Trị, Cùng tháng, quân Pháp mở cuộc hành quân vào trận tuyến Non Nước - Bà Nà, chiếm đóng vùng đồng bằng hạ lưu sông Cẩm Lệ và Thu Bồn. Ngày 30 tháng 3, huyện cuối cùng của Quảng Trị bị quân Pháp chiếm đóng.

Ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cùng một phần các huyện Tuyên Hóa, Quảng Trạch (Quảng Bình) vẫn nằm trong sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trở thành hậu phương lớn cho cuộc chiến với tên gọi Vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh hay Vùng tự do Liên khu 4, được mệnh danh là "Căn cứ địa vững chắc thứ hai của cả nước sau Việt Bắc".

Các chiến trường khác

Ở Đông Bắc Bộ, từ 15 tháng 4 năm 1946, quân Pháp đóng quân ở Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông (Quảng Yên). Tháng 7, với sự chỉ điểm của Voòng A Sáng, quân Pháp từ Vạn Hoa (Quảng Yên) đánh chiếm Tiên Yên (Hải Ninh), rồi tiến ra Đầm Hà, Bình Liêu. Ngày 7 tháng 7, quân Pháp chiếm giữ Lạng Sơn, chia quân đóng đồn ở Đồng Đăng, Bản Sâm, Lộc Bình,... Đến tháng 12, quân Pháp đã khống chế hầu hết các vị trí quan trọng ở các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Yên và Hải Ninh. Ngược lại, lực lượng Việt Nam ở Hòn Gai lại bị động chờ lệnh, khiến nhiều vị trí bị tập kích mà chưa kịp di chuyển. Để cầm chân quân Pháp, các đơn vị vũ trang Việt Nam mở một số trận tập kích, trong đó lớn nhất là trận đánh ở bốt Hà Lầm đêm Noel (24 tháng 12 năm 1946). Cuối tháng 12, quân Pháp ở Tiên Yên và Lạng Sơn mở các cuộc tấn công nối thông suốt đoạn đường số 4 từ Tiên Yên đến Đình Lập. Tháng 1 năm 1947, quân Pháp chiếm đóng hầu hết các vị trí quan trọng trên đường số 4 từ Hải Ninh đến Cao Bằng, hoàn thành khống chế biên giới Việt Nam - Trung Quốc, cô lập Căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 2, quân Pháp tấn công Uông Bí, Đông Triều. Ngày 14 tháng 3, quân Pháp mở cuộc tấn công lớn chiếm đường số 13, huyện Lục Nam và các huyện còn lại của tỉnh Hải Ninh. Ngày 19 tháng 3, quân Pháp mở cuộc tấn công khác vào Đông Triều, Phả Lại nhưng sau đó phải rút quân về Hải Phòng.

Ở Tây Bắc Bộ, trước ngày 19 tháng 12 năm 1946, quân Pháp đã chiếm đóng các tỉnh Lai Châu cùng hai huyện Phong Thổ và Bình Lư của tỉnh Lào Cai, mở rộng địa bàn hoạt động ra Hòa Bình, Sơn La, Lào Cai. Cuối năm 1946, quan Pháp chiếm huyện Than Uyên thuộc tỉnh Yên Bái, uy hiếp Phú Thọ và căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 1 năm 1947, Bộ Tư lệnh Khu 10 mở Mặt trận Tây Tiến, điều Trung đoàn 92 chủ lực khu phối du kích địa phương tấn công một số cứ điểm, ngăn chặn quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng. Tháng 3 năm 1947, quân Pháp ném bom thị xã Phú Thọ, khiến hơn 100 người chết. Ngày 15 tháng 4, quân Pháp tấn công và chiếm đóng tỉnh Hòa Bình. Giữa tháng 5, Pháp cho quân nhảy dù xuống Phú Thọ và đổ bộ đường thủy vào Việt Trì, nhưng phải rút sau 3 ngày.

Sau khoảng hai tháng giao tranh, quân đội Pháp dù chiếm được hầu hết các đô thị quan trọng nhưng không thể hoàn thành việc tiêu diệt các lực lượng vũ trang của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các cơ quan, kho tàng và một bộ phận người dân rút về các chiến khu, cùng lực lượng chính trị và vũ trang chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lâu dài.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|_Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến_ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.|thế= **_Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến_**, do Hồ Chí Minh soạn thảo, là lời phát động cuộc kháng chiến chống Pháp
**Toàn quốc kháng chiến** là cách gọi để nói tới sự kiện ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi cuộc chiến đấu giữa Quân đội Pháp và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Trường kỳ kháng chiến** là một trong bốn **Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp** của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với nội dung này, các lực lượng cộng sản
Các phong trào kháng chiến trong Thế chiến II xảy ra ở mọi quốc gia bị chiếm đóng bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ không hợp tác, không thông tin và tuyên truyền, để
**Hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa XIII nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (giản thể: 中华人民共和国第十三届全国人民代表大会第一次会议 hoặc 十三届全国人大一次会议; phiên âm Hán-Việt: _Đệ thập tam Giới Toàn
**Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được biết đến với tên gọi tắt **Cúp Truyền hình** hay **HTV Cup**, là một sự kiện thể thao
**Kháng chiến Pháp** (tiếng Pháp: La Résistance) là tập hợp các phong trào Pháp chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Pháp và cộng tác viên chế độ Vichy trong
Ngay từ năm 1947, vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đời sống mới. Khi đó, toàn quốc kháng chiến chỉ mới bắt
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Nam Bộ kháng chiến** là xung đột quân sự giữa Việt Nam và liên quân Anh, Pháp, Nhật bắt đầu xảy ra trước khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, được lấy mốc là ngày
**Lịch sử Bộ Quốc phòng Việt Nam** tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947** là chiến dịch phản công của lực lượng vũ trang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước **Cuộc hành quân Léa** do quân đội Pháp thực
**Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến** (có tài liệu gọi là **Chính phủ Liên hiệp Quốc gia**) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của
**Trường Đại học Trần Quốc Tuấn** (tiếng Anh: Tran Quoc Tuan University - First Army Academy) hay **Trường Sĩ quan Lục quân 1** là trường đào tạo sĩ quan chỉ huy lục quân sơ cấp
**Lê Trung Toản** (sinh năm 1921-2017) là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, chính khách Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội thương (nay là bộ Công thương), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế
**_Việt Nam kháng chiến_** (tiếng Trung: 抗战的越南) là bộ phim tài liệu do Trung Quốc và Việt Nam hợp tác sản xuất năm 1951, đạo diễn bởi Xướng Hạc Linh (唱鹤翎). ## Sản xuất _Việt
**Đại hội đại biểu Toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc** () hay còn được gọi là được gọi là **Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc** được tổ chức 5 năm 1 lần do
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Quốc hội Việt Nam khóa I** (nhiệm kì 1946-1960) là khóa Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội khóa I kéo dài 14
thumb|239x239px|Bản đồ thể hiện quyền kiểm soát lãnh thổ ở Afghanistan, với vùng đất do quân kháng chiến kiểm soát có màu hồng vào ngày 17 tháng 8.
(Xem [[bản mẫu:Taliban insurgency detailed map|bản
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Vũ Lăng.** (4 tháng 8 năm 1921 - 23 tháng 10 năm 1988) tên thật là Đỗ Đức Liêm, một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng, Anh
**Chiến tranh Genkō** (元弘の乱, _Genkō no Ran_) là một cuộc nội chiến xảy ra vào cuối thời kỳ Kamakura, do Thiên hoàng Go-Daigo khởi xướng nhằm lật đổ Mạc phủ Kamakura. Cuộc nội chiến diễn
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Chính phủ Liên hiệp Quốc dân** được thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, nhằm thay thế cho Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Chính
**Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến** là một tổ chức dân sự với mục đích thiện nguyện xã hội cho những người từng tham gia các cuộc kháng chiến trước đây. Tổ chức này
**Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam** thành lập ngày 15/3/1953 là đơn vị doanh nghiệp đầu tiên của ngành Văn hoá ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
nhỏ|Cao Triều Phát **Cao Triều Phát** (高朝發, 1889-1956), tự **Thuận Đạt**, là một nhân sĩ trí thức Việt Nam thời cận đại. Ông cũng là một tín đồ cao cấp của Cao Đài Minh Chơn
**Lê Giản**, tên thật là **Tô Dĩ** (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1911, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên - mất ngày 20 tháng 10 năm 2003,
**Nguyễn Ngọc Lạc** (1930 – 2017) là một Sĩ quan kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tá, nguyên Trưởng phòng Ra-đa – Tên lửa (nay thuộc Cục Kỹ thuật Binh chủng)
**Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải** (_tên tiếng Anh:_ University Of Transport Technology, _tên viết tắt:_ UTT) là trường Đại học công lập được nâng cấp năm 2011 từ _Trường Cao đẳng
**Cao Phòng** (1922–1988), tên thật là **Nguyễn Đăng Ngọ**, là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. ##
**Nguyễn Khang** (5 tháng 2 năm 1912 – 15 tháng 11 năm 1989), quê tại làng Yên Thái (làng Bưởi), quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, là một họa sĩ Việt Nam. Ông là
**Đỗ Quốc Sam** (1929–2010) là một Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, nguyên Đại biểu Quốc hội Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng đầu
**Trần Quốc Toản** (chữ Hán: 陳國瓚; (1267 - 15 tháng 07, 1285), hiệu là _Hoài Văn hầu_ (懷文侯), sau truy tặng tước vương, là một tông thất nhà Trần, sống ở thời kỳ trị vì
**Hà Văn Lâu** (9 tháng 12 năm 1918 – 6 tháng 12 năm 2016) là một chỉ huy quân sự, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam và là một nhà ngoại giao Việt
**Nguyễn Văn Luyện** (30 tháng 4 năm 1898 – 20 tháng 12 năm 1946) là một bác sĩ, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông sinh tại tỉnh Bắc Ninh. Ông tốt nghiệp
**Trần Sâm** (1918 - 2009) là một Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam , hàm Thượng tướng , một nhà quản lý khoa học kỹ thuật của Quân đội. Nguyên Thứ trưởng Bộ
**Nguyễn Tấn Gi Trọng** (1913 – 6 tháng 12 năm 2006) là một bác sĩ người Việt Nam. Ông từng làm đại biểu Quốc hội Việt Nam bảy khóa liên tục, từ khóa I đến
**Vũ Đình Huỳnh** (1905–1990) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông là người đầu tiên được phong quân hàm sĩ quan và là Đại tá đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng
**Chiến dịch nước Nga** (hay còn gọi là **Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812**, ) là bước ngoặt trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Trong vòng 10 năm trước đó, quân Pháp thắng
Giáo sư **Nguyễn Trinh Cơ** (1915-1985) là một nhà y khoa người Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Viện trưởng Viện Phẫu thuật Trung ương, Hiệu trưởng Trường Quân y sĩ Việt Bắc
GS.TSKH. **Hoàng Thủy Nguyên** (sinh ngày 18 tháng 3 năm 1929 tại Đông Ngạc, Từ Liêm (nay là Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm), Hà Nội, qua đời ngày 20 tháng 7 năm 2018) là người
**Ngô Quang Châu** (1919 – 2003) là một nhà báo, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục Việt Nam. ## Cuộc đời Ngô Quang Châu sinh năm 1919. Khi đang học ở trường tư thục
Biên Niên Sự Kiện Lịch Sử Nam Bộ Kháng Chiến 1945 - 1975 Cuốn sách được biên soạn nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu và minh họa chính sử Lịch sử Nam Bộ kháng
**Nghiêm Xuân Yêm** (1913–2001) là một kĩ sư nông nghiệp và chính khách Việt Nam. Ông là Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam trong 30 năm (1958–1988). Ông từng giữ chức vụ Bộ