✨Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (1944–1954)

Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (1944–1954)

Trong 10 năm (1944-1954), thành lập từ một"con số 0", Quân đội nhân dân Việt Nam đã phải đối mặt với những lực lượng quân sự mạnh trên thế giới trong đó có quân đội Đế quốc Nhật Bản và sau đó là quân đội Pháp. Để đương đầu với những lực lượng quân sự mạnh cũng đòi hỏi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát triển quân đội. Đi kèm với đó là những yêu cầu ngày càng cao cần từ công tác hậu cần.

Những ngày đầu

Năm 1944, khi thành lập, Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có vài khẩu súng. Trận Phai Khắt lấy được 30 khẩu, trận Nà Ngần lấy được 16 khẩu súng trường, đó là những vũ khí đầu tiên của Việt Minh.

Chiến tranh Đông Dương

Đến năm 1950, Việt Minh đã có khá nhiều súng trường tự động, súng máy, bazooka, súng máy hạng nặng. Đại bác khi công đồn được thay bằng bộc phá và chiến thuật đào hào.

Điều đặc biệt là nhiều vũ khí trang bị cho Việt Minh đều lấy từ Pháp. Ví dụ, ngày 11-10 năm 1950, khi chiếm Lạng Sơn, Việt Minh lấy được vũ khí đủ trang bị cho một sư đoàn chính quy mạnh, báo cáo quân Pháp:

  • 13 Pháo
  • 120 Cối
  • 450 Xe ô tô
  • 3 Xe bọc thép
  • 240 Súng máy hạng nặng
  • 1.200 Trung liên
  • 1.200 Tiểu liên
  • 8.500 Súng trường
  • 12.500 viên đạn đại bác 105mm
  • 6.500 viên đạn đại bác 75mm
  • 17.000 viên đạn đại bác 3inch7 (94mm)
  • 7.000 viên đạn đại bác không giật
  • 5 triệu viên đạn súng bộ binh.
  • 600 tấn xăng
  • Rất nhiều thực phẩm, quần áo.

Trước đó một tuần, trong Chiến dịch Biên giới, Việt Minh đánh Cao Bằng, bắt và giết 4.800 Pháp (không kể bị thương), người Pháp bỏ lại trận địa toàn bộ vũ khí. Cứ như vậy, sau mỗi trận đánh Việt Minh lại có điều kiện mở rộng quân số.

Du kích còn có nguồn vũ khí mua, đổi, binh vận... lấy được từ quân Pháp.

Vũ khí tự sản xuất của Việt Minh thường chỉ chú trọng những loại Pháp không có, như súng chống tăng, đại bác không giật, mìn, thủy lôi. Việt Minh cũng lập xưởng lớn chế tạo những đồ dễ làm, như nhồi lại đạn, làm lựu đạn, hạt nổ. Vật liệu nổ mạnh chủ yếu lấy từ vũ khí thu được và bom mìn không nổ. Việt Minh cũng có những xưởng hóa chất nấu axít sulfuric, axít nitric để làm thuốc nổ.

Quần áo Việt Minh tự may, nhưng phần lớn là sửa chữa từ quần áo Pháp. (Khi bắt được tên Pháp nào, người lính lập công tự thưởng luôn đôi giày quý giá, theo phong tục chung. Đến hết giai đoạn phòng ngự, giày còn quý hiếm đến mức có viên sĩ quan khư khư đeo giày lên cổ, chỉ xỏ vào chân lúc vượt hàng rào bãi chông)

Việt Minh có kế hoạch nghiên cứu sử dụng máy bay, nhưng không thành công. Việt Minh cử người đi học điện tử từ năm 1947 ở nước ngoài. Một số đài phát thanh Việt Minh vẫn được các kỹ sư duy trì hoạt động trong chiến khu. Thậm chí để chống phát hiện, họ tổ chức một đài phát thanh trên thuyền che kín.

Việt Minh sử dụng pháo binh ngay ngày đầu chiến tranh. Pháo đài Láng bắn khá chính xác. Trong chiến dịch Việt Bắc, tàu chiến Pháp trên sông Lô bị bắn chìm bằng pháo bắn thẳng khá nhiều. Nhưng chỉ đến năm 1949 Việt Minh mới có thể di chuyển những khẩu sơn pháo 75mm phục vụ đánh đồn. Đến cuối chiến tranh, Việt Minh đã có số lượng khá lớn cối pháo hạng nặng. Như cối 81mm, 120mm, lựu pháo 105mm và 155mm.

Sau năm 1950 thì Việt Minh có hậu cần đầy đủ. Tuy vậy, chỉ một số súng như cối, pháo phòng không 37mm, súng chống tăng P21 Tiệp Khắc, pháo phản lực được trang bị do những khác nhau về tiêu chuẩn súng pháo (Khối xã hội chủ nghĩa dùng tiêu chuẩn Nga và Liên Xô). Trung Quốc cũng viện trợ cho Việt Minh những súng pháo đạn dược lấy được ở Triều Tiên. Tuy vậy, phần lớn vũ khí của Việt Minh vẫn từ Pháp.

Cuối chiến tranh, Việt Minh đã thu được xe tăng máy bay, nhưng những thứ đó sau này không cần đến nữa.

Để hiểu được mức độ vũ khí Pháp mà Việt Minh lấy dùng, có thể tham khảo số liệu sau. Đây là con số tổng kết, chuẩn bị cho việc trang bị lại sau chiến tranh. Số liệu này Tổng cục Cung cấp lập ngày 2 tháng 7-1954. Số liệu này cũng không bao gồm các đơn vị mới sử dụng vũ khí tiêu chuẩn Liên Xô, như các đơn vị pháo phản lực, phòng không, cối lớn... đã tham gia đánh Điện Biên Phủ. Số liệu này cũng không bao gồm một ít súng K-50 đã được nhập vào, súng này Liên Xô sản xuất ở Trung Quốc. Số lượng này đủ trang bị cho 14 vạn quân mạnh.

  • 105.526 khẩu súng trường (trong đó 57% còn sử dụng được) gồm các loại Remington, M1 và M1A1 Carbine, MAS-36 *7,62mm. Mosin-Nagant M91-30 và M38 Carbine (Nga), Arisaka kiểu 38 và 99 (Nhật), Berthier-Mousqueton Modèle 1916 (Pháp).
  • 44.836 khẩu tiểu liên gồm Thompson M1928 (Mỹ), Sten Mk.2 (Anh), Tulle (Pháp).
  • 6.059 khẩu trung liên, đại liên (có 72% sử dụng được)
  • 2 tiểu đoàn lựu pháo 105mm.
  • 3 tiểu đoàn sơn pháo 75mm.
  • 7 đại đội cối 82mm và 120mm. Trong đó có một ít súng Nga hoặc Liên Xô do quân Đồng Minh đem đến đầu chiến tranh, một ít súng Nhật cũng lấy được đầu chiến tranh. Để so sánh, sau trận Điện Biên Phủ, Việt Minh chỉ có 3 trung đoàn không đầy đủ pháo viện trợ.

Các chiến khu

Việt Minh củng cố những căn cứ ở khắp nước trong những khu rừng rậm đầm lầy. Trong những căn cứ đó, Việt Minh tổ chức tự sản xuất lương thực và nhu yếu phẩm để tồn tại lâu dài. Những căn cứ lớn như Cà Mau, Đồng Tháp Mười, Khu Bốn, Việt Bắc có những xưởng lớn chế tạo vũ khí, trường đại học và cả nghiên cứu nghệ thuật, văn học. (Phần lớn trí thức và danh sĩ đều lên chiến khu, bất kể chính kiến).

Việt Minh đã chế được súng trường, súng cối, lựu đạn và súng chống tăng RPG, đại bác không giật, tên lửa bằng máy tiện đạp chân, kháng sinh penicillin được lên men từ ngô. Đây là một kỳ tích, khẩu bazooka và penicillin mới được các nước tiên tiến chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ 2, vài năm trước đó. Trần Đại Nghĩa chỉ huy việc sản xuất vũ khí ở Chi Nê và Việt Bắc. Một số xưởng lớn có những kỹ sư nước ngoài có ủng hộ kháng chiến. Như Saito người Nhật ở Quảng Ngãi.

Việt Minh chia cả nước ra các Khu. Do điều kiện vận chuyển hết sức khó khăn nên các liên khu hoạt động độc lập, từ việc xây dựng lực lượng, hậu cần đến chiến đấu và sản xuất. Có các liên khu lớn: Việt Bắc, Liên khu III (Hữu ngạn sống Hồng), Tả Ngạn (Tả ngạn sống Hồng), Tây Bắc, Khu IV (Bắc Trung Bộ đến Huế), Khu V (Nam Trung Bộ), Khu 7 (Miền Đông), Khu 9 (Miền Tây). Các căn cứ lớn cũng được thành lập trên Lào và Campuchia. Mỗi khu xây dựng quân cơ động riêng, căn cứ riêng. Khối quân cơ động được xây dựng ở Việt Bắc có vai trò đặc biệt, trở thành khối quân cơ động trung ương, quyết định chiến tranh. Mỗi khu xây dựng một vài chiến khu riêng, chiến khu này sẽ là tâm điểm của cuộc kháng chiến xung quanh.

Chiến khu của Liên khu Việt Bắc chính là Việt Bắc, trở thành Thủ đô kháng chiến hay còn gọi là Chiến khu Việt Bắc. Những hoạt động của nhà nước diễn ra ở đây. (Nơi đặt trụ sở các đại diện ngoại giao, các trường đại học). Trường Đại học Sư phạm được thành lập ở Chiến khu Việt Bắc để phát triển giáo dục.

Sau 1950 còn thành lập Việt Nam Học Hiệu bên Trung Quốc. Đây là một trường đa năng nằm gần biên giới đào tạo số lượng lớn nhân lực.

Cơ quan Hậu cần

Cơ quan Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam có tên gọi ban đầu là Tổng cục Cung cấp, được thành lập ngày 11 tháng 7 năm 1950, thuộc Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiền thân của Tổng cục Cung cấp là Cục Quân nhu, một trong 10 cục chuyên môn của Bộ Quốc phòng. Theo Sắc lệnh 34 ngày 25 tháng 3 năm 1946 về tổ chức Bộ Quốc phòng, thì Cục Quân nhu có chức năng mua bán hoặc tập trung, và tiếp tế quân giới, quân lương, quân trang cho bộ đội . Ngày 13 tháng 1 năm 1955, Tổng cục Cung cấp đổi tên thành Tổng cục Hậu cần.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong 10 năm (1944-1954), thành lập từ một"con số 0", Quân đội nhân dân Việt Nam đã phải đối mặt với những lực lượng quân sự mạnh trên thế giới trong đó có quân đội
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
nhỏ|Ảnh chụp thực tế mảnh vải với họa tiết K20 của [[Quân đội nhân dân Việt Nam, phiên bản màu dành cho Lục quân. Đây cũng là phiên bản được biên chế rộng rãi nhất
**Bùi Nam Hà** (1924–2019) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Tổng thanh tra Quân đội, Giám đốc Học viện Hậu cần, Phó Giám đốc Học viện
Đại tá **Nguyễn Văn Nhân** (1924 – 2013) là giáo sư, bác sĩ nổi tiếng của Việt Nam trong lĩnh vực xương và ghép xương. Ông được coi là cha đẻ của Ngân hàng xương
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Bùi Phùng** (1920 – 1999), là một Tướng lĩnh cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thượng tướng , nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế
**Trần Quý Hai** (1913-1985) là một tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Đàm Quang Trung** (1921–1995), tên thật là **Đàm Ngọc Lưu**, là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông cũng từng là một chính khách, từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng
**Lê Trọng Tấn** (1 tháng 10 năm 1914 – 5 tháng 12 năm 1986), tên thật là **Lê Trọng Tố**, là một Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng là Viện trưởng
**Nguyễn Trọng Xuyên** (1926–2012) là một tướng lĩnh cấp cao, quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Tư
**Lê Liêm** (1922 - 1985) là nhà cách mạng Việt Nam, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
**Hồ Văn Huê** (1917-1976) nguyên là đại tá, bác sĩ quân y Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
**Lê Huy Vinh** (sinh 1928) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không (1987–1988). Ông
**Hoàng Đạo Thúy** (1900–1994) là một nhà cách mạng và nhà hoạt động văn hóa xã hội Việt Nam. Ông từng là thủ lĩnh Phong trào Hướng đạo Việt Nam tại khu vực Bắc Kỳ
**Hoàng Trà** (sinh năm 1922), là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thiếu tướng (1974). Ông nguyên là Phó Chủ nhiệm về Chính trị Tổng cục Hậu cần. Nguyên Chính
**Trần Đình Cửu **(1925-2002), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 7, Cục trưởng Cục Cán bộ
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Đinh Đức Thiện** (15 tháng 11 năm 1914 – 21 tháng 12 năm 1986), tên thật là **Phan Đình Dinh**, là một vị tướng lĩnh cấp cao, hàm Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
**Xung đột giành quyền kiểm soát tại Quần đảo Trường Sa 1988**, hay còn gọi là **Hải chiến Trường Sa** hoặc **Xung đột Trường Sa** là sự kiện xung đột tại khu vực quần đảo
**Niên biểu lịch sử Việt Nam** là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho
**Đà Lạt** là thành phố tỉnh lỵ cũ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Quảng Trị** là tỉnh ven biển gần cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, tỉnh Quảng Trị mới là sáp
**Súng trường Mosin** (tiếng Nga: **винтовка Мосина** _Vintovka Mosina_) là một loại súng trường không tự động lên đạn từng phát một bằng khóa nòng danh tiếng của Đế quốc Nga (sau này là Liên
Đây là danh sách danh nhân sinh ra ở tỉnh Quảng Bình, Việt Nam theo từng lĩnh vực. ### Chính trị gia #### Nhà Hồ * Hoàng Hối Khanh (1362-1407), Lệ Thủy #### Nhà Mạc
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Chu Văn An** (còn được gọi là **Trường Chu Văn An**, **Trường Bưởi**, **Trường Chu** hay trước đây là **Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An,**
nhỏ|Huy Hiệu Hoa Sen**Gia đình Phật tử Việt Nam** (**GĐPTVN**) là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật
**Phan** (chữ Hán: 潘) là một họ tại Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 반, Hanja: 潘, phiên âm theo Romaja quốc ngữ là **Ban**). Phan là họ phổ biến thứ 6 với
**Trần Thiện Khiêm** (1925-2021) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân
**Tô** là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 소, Romaja quốc ngữ: So) và Trung Quốc (chữ Hán: 蘇, Bính âm: Su). Trong danh sách
**DShK** (tiếng Nga: **Д**егтярёва-**Ш**пагина **К**рупнокалиберный, phiên âm La tinh: _Degtyaryova-Shpagina Krupnokaliberny_) là một trong những mẫu súng máy hạng nặng sử dụng đạn 12,7x108mm nổi tiếng nhất của Liên Xô. Nó được nhìn thấy sử
**Lãnh đạo Đảng và Nhà nước** là thuật ngữ chính trị được sử dụng trên các phương tiện truyền thông về các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc.Tại
**Cao Đăng Chiếm** (1921-2007) là một chính khách và là sĩ quan an ninh cao cấp Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Thứ trưởng
**Phan Đình Thứ** (22 tháng 4 năm 1919 – 23 tháng 7 năm 2002), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân
**Hà Kế Tấn** (1912 – 1997) là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, Tư lệnh Liên khu III, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi, Chủ nhiệm Ủy ban
File:2021 collage V2.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Kính viễn vọng không gian James Webb được phóng vào năm 2021; Những người biểu tình ở Yangon, Myanmar sau cuộc đảo chính; Một cuộc
Tập tin:2007 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Steve Jobs giới thiệu chiếc điện thoại iPhone, điện thoại thông minh đầu tiên trên thế giới; Hành khách trên chuyến bay 3054 đang
File:2019 collage v1.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Các cuộc biểu tình ở Hồng Kông 2019–2020 đã biến thành bạo loạn lan rộng và bất tuân dân sự; Hạ viện Hoa Kỳ bỏ
**Nguyễn Hồng Nghi** (19 tháng 12 năm 1918 – 12 tháng 2 năm 1991) là một trong những nhà nhiếp ảnh, đạo diễn điện ảnh tiên phong của điện ảnh cách mạng Việt Nam, nguyên
File:2018 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông 2018 tại PyeongChang, Hàn Quốc; Biểu tình nổ ra sau Vụ ám sát Jamal Khashoggi; Các cuộc
**Phong trào giải phóng dân tộc** là phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới trong thế kỷ