✨Lê Thị Lựu
Lê Thị Lựu (chữ Hán: 黎氏榴, 19 tháng 1 năm 1911 – 6 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ chuyên về tranh lụa và tranh sơn dầu người Việt Nam. Bà được xem là nữ họa sĩ đầu tiên của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam, nằm trong bộ tứ danh họa Việt tại Pháp Phổ – Thứ – Lựu – Đàm.
Sinh ra trong một gia đình theo Tây học, ngay từ cấp sơ học, Lê Thị Lựu đã hình thành niềm yêu thích với hội họa và quyết định thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Sau khi đỗ đầu trường khóa 3 năm 1927, bà sớm được biết đến thông qua hai bức sơn dầu vẽ 1929 Thiếu nhi trong vườn chuối và Chân dung Ông Hai, được trưng bày trong triển lãm chung đầu tiên của trường. Các sáng tác chủ yếu của Lê Thị Lựu giai đoạn này là tranh sơn dầu, sở trường chân dung. Sau khi trở thành nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp trường, hạng thủ khoa, bà nhanh chóng có được sự công nhận từ giới báo chí, đặc biệt là nhóm Tự Lực văn đoàn. Lê Thị Lựu từng nhận bổ nhiệm làm giáo sư tại nhiều trường học khác nhau trên khắp cả nước. Với tư cách là hướng đạo sinh, bà cũng sáng lập nên tổ chức "Bầy sói con Trứng Rồng". Năm 1940, nữ họa sĩ cùng chồng là Ngô Thế Tân sang Pháp.
Dành phần lớn cuộc đời sống tại Pháp, Lê Thị Lựu đã gặp nhiều trở ngại trong cuộc sống gia đình và có lúc phải tạm ngưng vẽ tranh suốt nhiều năm, từ thập niên 1930 đến thập niên 1950, ngoại trừ một số bức được thực hiện vào những dịp đặc biệt khác nhau. Khoảng thời gian này, bà tích cực tham gia phong trào chống Pháp trong thời điểm hoạt động cách mạng diễn ra sôi động. Khi trở lại hội họa, Lê Thị Lựu chuyên tâm theo đuổi dòng tranh lụa và kiên trì với trường phái cổ điển, cho ra đời nhiều tác phẩm gây được sự chú ý từ các triển lãm, cửa hàng tranh bên Pháp: thời điểm đầu sáng tác, ba bức tranh lụa nhỏ của Lựu giúp đem về cho nữ họa sĩ giải nhất trong số các tranh và bà được công nhận là thành viên thực thụ của Hội liên hiệp phụ nữ hội họa và điêu khắc Pháp. Trong những năm cuối đời, Lê Thị Lựu đã hoàn thiện nhiều tác phẩm thành công để lại dấu ấn trong sự nghiệp của mình. Họa phẩm cuối cùng mà bà xong trước khi mất là bức Tam đại đồng đường.
Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác, ước tính số lượng tranh Lê Thị Lựu vẽ chỉ dao động khoảng 250 đến 500 bức. Tuy nhiên các tác phẩm của bà, đặc biệt là tranh lụa, đã nhận về đánh giá cao từ những nhà phê bình chuyên môn và được đem đi bán đấu giá tại Christie's, Sotheby's... thu về số tiền kỷ lục. Vào năm 2018, nhà phê bình Thụy Khuê và chồng bà là Lê Tất Luyện – họ hàng của nữ họa sĩ – đã quyết định trao tặng Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh nhiều tranh vẽ, thư từ, thơ Lê Thị Lựu; đồng thời xuất bản cuốn sách Lê Thị Lựu, ấn tượng hoàng hôn, trong đó tổng hợp lại chi tiết cuộc đời nữ danh họa cùng cuộc sống của những họa sĩ người Việt tại Pháp từng tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương.
Thời niên thiếu
trái|nhỏ|250x250px|Lê Thị Lựu đứng cạnh họa sĩ [[Nam Sơn (họa sĩ)|Nam Sơn (ở giữa) và hiệu trưởng trường Mỹ thuật Đông Dương Victor Tardieu (bên phải), 1927]] Lê Thị Lựu sinh ngày 19 tháng 1 năm 1911, quê tại làng Thổ Khối, xã Cự Khối, huyện Gia Lâm, Phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Đây là nơi sinh, cũng là quê nội và quê ngoại của bà. Cha mẹ Lê Thị Lựu đều đồng danh tên Quế: cha bà là Lê Văn Quế còn mẹ bà là Lê Thị Quế. Từ nhỏ đến năm 14 tuổi, bà đã theo cha, một công chức tòa sứ, đến nhiều tỉnh thành khác nhau gồm Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng và Hà Nội.
Chuẩn bị trước khi thi, Lựu mua duy nhất cuốn vẽ luật viễn cận rồi tự học, đồng thời nhờ một anh người nhà tên Pheo làm mẫu để thực hành. Sau khi thi xong, bà đậu thứ 13 và ghi tên lớp dự bị vì trường chỉ lấy 10 người. – khi mới 16 tuổi. Bước vào trường lúc đó, bà đã gặp trở lực từ phía phụ huynh, xã hội và bạn học: là một trong số ít các họa sĩ nữ của trường, khi mới vào thực tập tại trường bà phải thuyết phục gia đình cho đi học lớp vẽ tranh khỏa thân nam với người mẫu thật; Bất chấp những điều này, suốt quãng thời gian 5 năm theo học bất cứ môn nào Lê Thị Lựu đều trội hơn các bạn đồng khóa. Bà cũng kết bạn với đàn anh trong trường, là các học sinh ưu tú nhất, gồm ba họa sĩ Mai Trung Thứ, Lê Phổ và Vũ Cao Đàm, bên cạnh đó là hiệu trưởng trường Tardieu. Năm 1932, Lê Thị Lựu trở thành nữ họa sĩ đầu tiên tốt nghiệp trường Mỹ thuật, hạng thủ khoa.
Sự nghiệp
1927–1940: Khởi đầu hội họa và sang Pháp
[[Tập tin:Lê Thị Lựu và tranh biếm họa.jpg|nhỏ|225x225px|Tranh biếm họa của Lê Thị Lựu vẽ dịp tốt nghiệp thủ khoa cho tờ Phụ nữ tân văn, bên phải là hình chân dung và thông tin tóm tắt về bà chỉ sau vài phút thuyết trình về hai tác phẩm liền có hai người mua các tranh này với giá tổng là 400 đồng
_Sau cùng, là bức hoành hoàn toàn đáng chú ý của cô Lê Thị Lựu, năm thứ ba, vẽ trẻ em chung quanh cây chuối. Tôi cho rằng đó là bức tranh duy nhất cho ta thấy một đứa nhỏ bụng bự đầy cơm. Và đáng yêu thay người vẽ đứa bé lại là một thiếu nữ! Ta thấy trong bức tranh này một cảm xúc rất êm dịu của tuổi thơ. Bức họa thứ nhì vẽ chân dung Ông Bác, bút pháp ngang tàng làm liên tưởng tới Reynolds._
Năm 1931, bà cùng các họa sĩ khác trong trường, dẫn đầu là Lê Phổ, tham dự Triển lãm Thuộc địa tổ chức tại Paris. Các tác phẩm của nữ họa sĩ đã thành công gây ấn tượng với những nhà phê bình nghệ thuật người Pháp. Năm 1932, sau khi ra trường, tên tuổi Lê Thị Lựu nổi danh khắp ba kỳ, được nhiều tờ báo trong nước nhắc đến như là nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp thủ khoa khóa III Cao đẳng Mỹ thuật. Tại một bài báo khác trên tờ Phong Hóa số 18, mà theo suy đoán thì tác giả là nhà văn Thạch Lam – người phụ trách thường xuyên mục phê bình nghệ thuật của tờ Phong Hóa và Ngày Nay – người viết cũng đề cập đến Lê Thị Lựu bên cạnh hai họa sĩ tốt nghiệp khóa I trường Lê Phổ và Mai Trung Thứ:
_Ông Lê Phổ, cô Lê Thị Lựu, ông Mai Trung Thứ cùng nhiều họa sĩ khác đều là người có tài, mỗi người một vẻ riêng_ [...] _Có một điều đáng ghi là cô Lê Thị Lựu không ngần ngại là quần vận, yếm mang, chen chân thích cánh với bọn hoạ sĩ đàn ông, mà cái hay cái khéo của cô lại hơn người, thật là vẻ vang cho phụ nữ nước nhà._nhỏ|235x235px|Lê Thị Lựu trong thời gian ở Sài Gòn, năm 1936
Năm 1933, tại một Triển lãm Thuộc địa ở Paris, Lê Thị Lựu đã giới thiệu các bức tranh lụa và sơn dầu vẽ cảnh Đế Thiên Đế Thích cùng người ăn mày, cũng như một bức khác mang tên Người và vật. Những họa phẩm này trước đó từng được trưng bày tại Triển lãm Phụ nữ tân văn 1932. Từ năm 1933 đến 1935, theo quy chế đương thời, bà được bổ nhiệm làm giáo sư lần lượt ở các trường Trung học Bảo hộ (sau là trường Bưởi), trường Nữ sinh Đồng Khánh và trường tư thục Hồng Bàng Hà Nội. Với tư cách là hướng đạo sinh, Lựu cũng tham dự Trại họp bạn Hướng đạo toàn quốc tại Sân vận động Mayer, Sài Gòn. Bà đã kết hợp sử dụng năm thứ ngũ cốc để tạo thành chân dung ông Robert Baden-Powell, đồng thời tham gia thiết kế mẫu huy hiệu "Hướng đạo Việt Nam" với biểu trưng cách điệu từ hoa sen và được dùng làm một trong những huy hiệu chính thức của tổ chức cùng tên. lập nên tổ chức "Bầy sói con Trứng Rồng", truyền đạt cho những thanh thiếu niên tham gia có tư tưởng tiến bộ, thích nghi với mọi hoàn cảnh của đời sống.
Giai đoạn 1935–1936, Lê Thị Lựu chuyển vào Nam, dạy cho trường Nữ sinh Áo tím Sài Gòn (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai) và trường Mỹ nghệ và Trang trí Gia Định. và làm thơ, dù rất ít, bằng bút danh Thạch Ẩn do một nhà sư đặt cho. Những năm 1937]] Năm 1945, chiến tranh kết thúc, Lê Thị Lựu trở về Paris và ở tạm xưởng vẽ với Mai Thứ một thời gian. Năm 1947, bà dọn sang số 41 phố rue Blomet quận 15 và là hàng xóm của Lê Phổ; đây là nhà giáo sư Trần Hữu Tước khi về nước sang tên lại. Trong thời gian trên, bà đã gửi các tranh vẽ của mình cho phái đoàn Quốc hội Việt Nam, theo lời hiệu triệu từ Ủy ban tổ chức Triển lãm để dựng nên triển lãm tranh đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1946, cũng như thiết kế mẫu tem cho chính phủ Việt Nam lâm thời. Bà đã tham dự các buổi họp Phong trào Hòa bình Thế giới tổ chức ngay trên đất Pháp và ngoại quốc, bất chấp việc nằm trong "sổ đen" của chính quyền sở tại và luôn luôn bị truy vấn bởi cảnh sát, mật vụ, v.v..
Khởi đầu cho việc trở lại làm họa sĩ, năm 1957, Lê Thị Lựu thường xuyên đem tranh đến phòng trưng bày Chapelin cạnh Điện Elysée. Năm 1959, ba bức lụa nhỏ bà sáng tác cùng được trưng bày ở trung tâm phòng triển lãm hàng năm Hội liên hiệp phụ nữ hội họa và điêu khắc (Union des femmes peintres et sculpteurs). Chỉ ngay trong buổi khai mạc, có hai người Mỹ đã mua hai bức tranh của bà, tranh còn lại thì do bà chủ phòng tranh Chapelin nhận. Cả ba tác phẩm trên sau đó đem về cho Lê Thị Lựu giải nhất trong các tranh và bà được phong làm thành viên thực thụ (Sociétaire từ năm 1960, Lê Thị Lựu đã kiện toàn phong cách tranh lụa của riêng mình Trong giai đoạn này, bức vẽ thành công nhất của Lê Thị Lựu là Mẹ địu con, vẽ 1970-1975, từng được in thành nhiều phiên bản cho cơ quan từ thiện bán lấy tiền.
Năm 1962, Lê Thị Lựu trở thành giáo sư hội họa trường Lycée Corot; một năm sau đó vào 1963 bà tiếp tục làm giáo sư tại hai trường Lycée Rodin Paris và Lycée d’Orsay vùng ngoại ô Paris. Ngày 4 tháng 12 năm 1963, Lê Thị Lựu đã tham gia vào buổi triển lãm tranh với những họa sĩ khác ở trung tâm Foyer des Artistes trên đại lộ Montparnasse. Đến năm 1971, sau khi cùng chồng nghỉ hưu,
Bà đã được truyền dạy kiến thức và kỹ thuật hội họa phương Tây từ trường học. Trong những tác phẩm của mình, Lê Thị Lựu ít chú ý thiên về cái đẹp thuần túy và tính truyền thống, giống như ba người bạn Phổ – Đàm – Thứ, mà thay vào đó tập trung khai thác tâm lý của từng bức họa. Tranh của bà luôn hướng tới vẻ đẹp hoàn thiện và lý tưởng. Khác với giai đoạn đầu khi các bức tranh của bà có lối diễn tả hình thể nhân vật vững chắc, già dặn, trong những tác phẩm về sau nữ họa sĩ lại không quá chú trọng vào hình khối. với các tông màu của xanh lam, xanh lục, hồng. Từng mảng màu tranh xếp chồng lẫn lên nhau, góp phần "tạo nên chiều sâu" cho tác phẩm. Những cảm xúc của nữ họa sĩ gửi gắm vào đường nét và màu sắc trong tranh được nhận xét là "mềm mại", "dịu dàng".
Sau khi trở lại hội họa và chuyên tâm theo đuổi tranh lụa, Lê Thị Lựu cũng làm theo kỹ thuật này của Cao Đàm. Thế nhưng, các họa phẩm bà vẽ lại hoàn toàn khác với các họa sĩ tranh lụa khi đó như Vũ Cao Đàm, Nguyễn Phan Chánh: tranh lụa của Lựu thiên về cách tiếp cận phương Tây, giàu màu sắc và nhiều lớp lụa đắp dày; bà tìm tòi để kết hợp giữa nghệ thuật vẽ lụa với kỹ thuật ấn tượng nhằm tạo ra một phong cách vẽ tranh lụa mới của riêng mình:
Tác phẩm
Đa số các tác phẩm của Lê Thị Lựu là tranh lụa, chỉ có số ít tranh sơn dầu. Hiện nay, không thể tính được hết số lượng họa phẩm mà Lê Thị Lựu hoàn thành bởi khi còn sống, bà không có thói quen ghi và chụp lại tranh. Hầu hết tranh do bà vẽ đều nhanh chóng có người đến mua sau khi làm xong. Cũng theo ông Ngô Thế Tân khi còn ở Việt Nam, Lê Thị Lựu chỉ vẽ chưa đến trăm bức, còn sau khi sang Pháp thì không quá 400 bức (ở Guinée khoảng mười bức). Do phần lớn tranh của bà được vẽ khi bà sống tại Pháp nên nhiều bức đến nay đã bị thất lạc tại các kho lưu giữ ở Pháp. Số ít khác là thuộc về bộ sưu tập tư nhân và bảo tàng. Kể cả đối với tranh khỏa thân, bà cũng vẽ kín đáo, khác với cách vẽ lộ liễu trong tranh thiếu nữ của họa sĩ tân cổ điển Jean-Auguste-Dominique Ingres. Lê Thị Lựu hầu như không vẽ tranh qua người mẫu, và các bộ mặt trong tranh đều do họa sĩ tưởng tượng ra. Điểm riêng biệt với họa sĩ đàn anh Lê Phổ, Cao Đàm, Mai Thứ là Lê Thị Lựu không vẽ tranh theo một loạt đề tài gần kề mà từng tác phẩm đơn lẻ.
Những năm còn sống tại Việt Nam, Lê Thị Lựu là một họa sĩ luôn hướng đề tài của mình về tầng lớp những người dân lao động, nghèo khổ, với các bức vẽ khắc họa dáng vóc cơ thể của đàn ông và phụ nữ, nét mặt những người thôn quê, của những người sống đầu đường xó chợ. Theo bà, "Cái đẹp thật là cái đẹp ở những người phụ nữ lao động, bình dân ở thông quê, nó đẹp từ trong tinh thần ra ngoài gương mặt. Cả đời lam lũ, đầu tắt mặt tối nhưng họ vẫn đẹp tự nhiên, chớ cái đẹp giả tạo có ra gì, lạ gì mà họa cho uổng công". Khi định cư sang Pháp, ngòi cọ của bà vẫn hướng về những hình ảnh, ký ức quê hương, con người nhưng mang nét bình yên và êm ả hơn.
Chất liệu
Trong những năm đầu vào trường cho đến 1940, Lê Thị Lựu chủ yếu áp dụng chất liệu sơn dầu trong mọi sáng tác, tiêu biểu là hai bức Chân dung Ông Hai và Thiếu nhi trong vườn chuối, và ít vẽ trên nền lụa, hay hiếm hơn là màu phấn, màu nước. Bà cũng vẽ tranh bằng chì đen và chì son, như bức Chân dung người Guinée. Có thời gian, bà từng học cách vẽ sơn mài, trong đó để lại bức Scène de village vietnamien au crépuscule (tạm dịch: Cảnh làng quê Việt Nam lúc chạng vạng), nhưng lại bị dị ứng khi sử dụng. Sau này, bên cạnh màu nước, bà đã xử lý chất liệu tổng hợp trên tranh lụa ở các họa phẩm của mình.
Các tác phẩm chính
Tranh sơn dầu
Chân dung
Bà đã khởi đầu sự nghiệp hội họa từ những bức tranh sơn dầu, trong đó sở trường là về chân dung.
Khi định cư ở Pháp, Lê Thị Lựu đã sáng tác các tranh chân dung bằng sơn dầu mang phong cách, cá tính độc đáo. Hè năm 1961, bà vẽ hai bức Bà cụ Pyrénées và Ông cụ Pyrénées, được xem là mốc đánh dấu cho sự hình thành phong cách riêng của bà kết hợp với hội họa biểu hiện. Cũng nhân một dịp khác, nữ họa sĩ tiếp tục hoàn thiện tác phẩm mang tên Phẫn nộ, vẽ một thanh niên Pháp tóc hung, râu quai nón; là chân dung người bạn của cậu con trai Ngô Mạnh Đức. Thời gian này, Lê Thị Lựu cho ra đời bộ ba bức chân dung về cha mình, về sau nằm trong số những tranh chân dung thành công nhất, mang tên Cha tôi, trong đó miêu tả lại tâm trạng u sầu và nuối tiếc của cha sau khi quyết định sang Pháp để sống cùng người con gái đầu lòng.
Phong cảnh
Lê Thị Lựu rất hiếm khi vẽ tranh phong cảnh, trong đó chủ yếu các bức phong cảnh là bằng sơn dầu. Trong các họa phẩm này, ngoài thể hiện tinh thần hội họa phương Tây, cũng như chuyển mình sang trường phái ấn tượng, dù trường phái hậu ấn tượng đã thay thế cho trường phái ấn tượng và không còn xuất hiện nhiều trong các tác phẩm hội họa đương đại. trên cả trang nhất và một vài tờ báo khác mà khi đó chính bà đọc đưa tin: "Hỡi ôi, cô Lê Thị Lựu đã chết rồi".
Di sản
Ghi nhận, đánh giá
Lê Thị Lựu được xem là nữ hoạ sĩ hiện đại đầu tiên của mỹ thuật Việt Nam. Cùng với Mai Trung Thứ, Lê Phổ và Vũ Cao Đàm, Lựu cũng nằm trong bộ tứ họa sĩ Việt tại Pháp gồm Phổ – Thứ – Lựu – Đàm. Bà và ba người bạn này được coi là "nhân chứng của ngôi trường đầy sức mạnh và đầy chuyển biến". Riêng Lê Thị Lựu được công nhận "vừa là đại diện cho phụ nữ, vừa là đại diện tiêu biểu cho cả nền hội họa hiện đại Việt Nam" Các bức sơn dầu của nữ họa sĩ từng được hiệu trưởng Tardieu so sánh là giống với Paul Cézanne. Trong cuốn sách Hội họa Việt Nam – Một diện mạo khác xuất bản năm 2015, nhà nghiên cứu văn hóa Phan Cẩm Thượng ghi nhận Lê Thị Lựu và ba người bạn họa sĩ của bà đã hình thành nên trường phái hội họa Pháp–Việt ở Paris; nhận xét tranh nữ danh họa có chất lượng kỹ thuật tốt, mang tính phản ánh xã hội đương thời và "vẻ bình dị mà vẫn phức tạp đa chiều". Nét vẽ của bà cũng được đánh giá là "kết hợp giữa sự hòa hợp nhưng không kém phần sắc sảo [...] Thân phận con người toát lên trong tác phẩm rất rõ nét".
Vào những năm 1970, bức Cô gái bên bờ suối bà vẽ 1973 được một thương nhân mua trực tiếp và lưu trữ tại bộ sưu tập tư nhân, sau này đem đi bán đấu giá vào năm 2019 tại Pháp với giá 57.000 EUR (60.549 USD theo tỷ giá 2022). Từ năm 1987, tức trước khi bà qua đời một năm, có một nhà môi giới nghệ thuật ở Anh đã tìm gặp Lê Thị Lựu để chọn mua họa phẩm cho bảo tàng tại Luân Đôn; một bức tranh của nữ họa sĩ sau đó được trả 40 ngàn bảng Anh. Năm 2019, 11 tác phẩm của bà góp mặt trong buổi bán "20th Century & Contemporary Art" của Christie's Hong Kong, bên cạnh Lê Phổ, Mai Trung Thứ và Vũ Cao Đàm, với giá dao động từ 56.250 – 2,5 triệu HKD ( 7.225 – 321.135 USD theo tỷ giá 2022). Đến năm 2021, bức Ba mẹ con trên cỏ của Lê Thị Lựu đã được bán đấu giá 6,83 triệu HKD (878.000 USD theo tỷ giá 2021) trong một phiên bán khác của Sotheby's. Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tác phẩm Mẹ và con đã được bán đấu giá thành công 573.925 USDmức giá cao nhất trong phiên đấu giá trực tuyến của Sotheby’s mang tên "Indochine" gồm 49 tranh hiện đại, cùng một số tạp chí cũ của các họa sĩ và giáo viên tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Hôm 30 tháng 3 năm 2025, họa phẩm Vô đề, vẽ 1961, tiếp tục đấu giá thành công với số tiền 2,92 triệu HKD ( 376.390 USD theo tỷ giá 2025), trong phiên chào bán "Modern & Contemporary Day Auction" của Sotheby's. Các bức họa bà vẽ cũng xuất hiện trong một cuộc trưng bày tổ chức tại De Sarthe Gallery Hong Kong vào tháng 7 năm 2017, đi cùng với loạt tác phẩm chính của họa sĩ người Mỹ gốc Việt Richard Streitmatter-Tran.
Tìm kiếm và trưng bày tại Việt Nam
Trong khoảng thời gian viết bài tiểu luận "Lê Thị Lựu, ấn tượng hoàng hôn" năm 1988, nhà phê bình Thụy Khuê đã nảy sinh ý định đưa những tác phẩm hội họa của Lê Thị Lựu về Việt Nam. Nhưng khi ấy, bà cho rằng tất cả đều đã hoàn toàn thất lạc và các bảo tàng khắp Việt Nam cũng không có lấy một bức tranh nào của nữ họa sĩ. ông Ngô Thế Tân đã trao cho vợ chồng Thụy Khuê bộ sưu tập gồm 18 bức tranh cùng hai bản sao chụp tác phẩm và dặn Thụy Khuê chỉ đưa những tranh này về khi có sự bảo đảm rằng chúng sẽ không biến mất, hoặc bị sao chép hay bán ra nước ngoài.
Bên cạnh bộ sưu tập trên, vợ chồng Thụy Khuê còn có một bộ sưu tập riêng khác gồm 9 họa phẩm, trong đó 8 bức là Lê Thị Lựu vẽ và bức còn lại của ông Tân; các bức tranh trong cả hai bộ sưu tập đều được sáng tác giai đoạn 1940–1988. Đến năm 2015, nhà sưu tầm tranh Nguyễn Minh tổ chức một buổi triển lãm ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mang tên Hội họa Việt Nam – Một diện mạo khác, có tranh của Lê Thị Lựu. Đây là những họa phẩm được ông mua lại từ các nhà đấu giá nước ngoài. Tháng 7 năm 2022, hãng bán đấu giá Sotheby's đã tổ chức một buổi triển lãm tranh phi thương mại đầu tiên của mình tại Việt Nam mang tên Hồn xưa bến lạ, diễn ra từ ngày 11 tháng 7 đến 14 tháng 7 tại khách sạn Park Hyatt Saigon. Sự kiện trưng bày 56 bức tranh vẽ của bộ tứ Phổ – Thứ – Lựu – Đàm, được xem là một trong những triển lãm tranh Đông Dương lớn nhất tại Việt Nam cả về giá trị lẫn số lượng.
Bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
thumb|Phòng trưng bày các tác phẩm và tư liệu của Lê Thị Lựu tại [[Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh|225x225px]] 24 năm sau cuộc phỏng vấn với Lê Phổ và Ngô Thế Tân năm 1994, Tất cả 29 bức tranh Thế nhưng, những tác phẩm này tính đến thời điểm diễn ra triển lãm vẫn chưa được mua bảo hiểm để tránh trường hợp như tranh sẽ bị sao chép, đánh cắp, v.v.. Bảo tàng Mỹ thuật Hồ Chí Minh đồng thời thực hiện bộ phim Thông điệp từ những bức tranh – mô tả lại quá trình tiếp nhận tranh và những phân tích về các sáng tác của Lê Thị Lựu giai đoạn cuối.