✨Văn Thành Công chúa

Văn Thành Công chúa

Văn Thành công chúa (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là Gyamoza (chữ Tạng: ), Hán ngữ là Hán Nữ thị (漢女氏) hoặc Giáp Mộc Tát Hán công chúa (甲木薩漢公主; tức "Người vợ công chúa Trung Hoa"), là một hòa thân công chúa nhà Đường, bà đã kết hôn với Songtsen Gampo, Tán Phổ đầu tiên của Đế quốc Thổ Phồn, qua đó thiết lập nền hòa bình giữa hai quốc gia trong thời gian Songtsen Gampo trị vì.

Bên cạnh Songtsen Gampo và một người vợ khác của ông là công chúa Nepal Bhrikuti Devi, Văn Thành công chúa được xem là một trong những người đã mang Phật giáo tới Tạng . Ngoài ra, bà cũng được xem như là một hóa thân của Đa La Bồ Tát. Dù có vai trò quan trọng với cả văn hóa Tạng và Trung Hoa, hình tượng Văn Thành công chúa đang dần bị biến thành một công cụ chính trị trong chiến dịch Hán hóa Tây Tạng của Trung Quốc.

Thân thế

Không ai biết cha mẹ bà là ai, tên của bà là gì, "Văn Thành" không phải tên thật mà là phong hiệu khi bà được thụ phong tước hiệu Công chúa. Cho đến nay, thân thế của Văn Thành công chúa vẫn chưa được làm rõ, đại khái chỉ biết bà là người trong hoàng tộc họ Lý của nhà Đường, không phải con gái của Đường Thái Tông Lý Thế Dân mà là con gái của một Thân vương nào đó. Đây cũng là điều phổ biến trong lịch sử nhà Đường, nhiều người chỉ là con gái hàng Tông thất, không phải Hoàng nữ nhưng vì lý do hòa thân mà được phong tước hiệu Công chúa để gả đi. Trường hợp tương tự với Văn Thành còn có Nghi Phương công chúa, hoặc xa hơn là Lưu Tế Quân thời Hán.

Theo Cựu Đường thư, Văn Thành công chúa có thể là con của Giang Hạ vương Lý Đạo Tông, cháu nội của Lý Hổ, thuộc dòng dõi của Đường Cao Tổ Lý Uyên. Căn cứ sách Cựu Đường thư, phần "Thổ Phồn truyện thượng" chép lại:「"Lệnh Lễ bộ Thượng thư Giang Hạ vương Đạo Tông trì tiết tống Văn Thành công chúa vu Thổ Phồn…… Kiến Đạo Tông, tẫn tử tế chi lễ kỳ cung"」. Trong đó, 4 chữ ["Tử tế chi lễ"] có nghĩa "Dùng lễ con rể", cho thấy Tán phổ đã dùng tư cách con rể để đãi Lý Đạo Tông, do đó học giả Vương Nghiêu (王尧) nhận định khả năng cao Lý Đạo Tông là cha ruột của Văn Thành công chúa.

Hôn nhân

Năm 634, ứng với năm thứ 8 niên hiệu Trinh Quán của Đường Thái Tông, Tán phổ của Thổ Phồn là Songtsen Gampo biết tin cả Göktürk và Thổ Dục Hồn đều kết hôn với các công chúa nhà Đường, nên phái người sang sứ Trung Hoa cầu hôn ước . Quốc lực của Thổ Phồn vào lúc bấy giờ chưa được coi trọng, nên đề nghị của này Songtsen Gampo bị Đường Thái Tông từ chối ngay lập tức. Khi ấy vua Thổ Dục Hồn là Nặc Hạt Bát cũng tới Trung Hoa triều kiến, sứ thần Thổ Phồn trở về báo với Songtsen Gampo rằng Vua Thổ Dục Hồn ở giữa gây khó dễ, khiến triều Đường cự tuyệt hôn ước.

Đến năm Trinh Quán thứ 12 (638), Songtsen Gampo cùng Tượng Hùng xuất quân tiến đánh Thổ Dục Hồn. Thổ Dục Hồn không thể chống cự, phải rút về phía bắc hồ Thanh Hải, khu vực thảo nguyên phía nam bị Thổ Phồn chiếm đóng. Khi đó, Songtsen Gampo lại tấn công đất của người Đảng Hạng, kế đó kéo quân tới Tùng Châu (nay là Tùng Phan, Tứ Xuyên) . Đô đốc Tùng Châu xuất quân nghênh chiến nhưng nhanh chóng bị đánh bại. Thứ sử hai châu Khoát, Nặc (phía bắc Tùng Phan) cùng nhiều bộ tộc người Khương quy hàng Thổ Phồn. Đường Thái Tông lại phái Lại bộ Thượng thư Hầu Quân Tập đem quân ra đánh. Ngưu Tiến Đạt đi tiên phong, nhân khi ban đêm tấn công, giết hơn ngàn người, ép lui quân quân Phồn. Chinh chiến đã lâu, nhiều người thỉnh cầu bãi binh nhưng Songtsen Gampo khước từ, đến khi tám đại thần đe dọa tự sát ông mới đồng ý , quân Thổ Phồn cũng rút khỏi các vùng chiếm đóng tại Thổ Dục Hồn và Đảng Hạng. Songtsen Gampo sai Gar Tongsten tới Trường An tạ tội nhân cầu hôn ước, và lần này đã được chấp thuận . Các tài liệu lịch sử tại Tạng lại ghi rằng quân đội Thổ Phồn đã đánh bại quân đội Trung Hoa và Hoàng đế nhà Đường bị ép buộc phải gả công chúa bằng vũ lực.

Năm 641 công nguyên, ứng với niên hiệu Trinh Quán thứ 15, lệnh cho Giang Hạ vương Lý Đạo Tông hộ tống Văn Thành công chúa tới Thổ Phồn, còn Tán phổ Songtsen Gampo từ Lhasa tới khu vực Thanh Hải nghênh đón. Tại Thổ Phồn, Văn Thành công chúa được biết đến như là 「Gyamoza」, có nghĩa là "Người vợ đến từ Trung Hoa". Theo nghiên cứu trong văn bản khoa học Đôn hoàng bổn Thổ Phồn lịch sử văn thư tăng đính bản của nhà Tạng học Vương Nghiêu năm 1992, Văn Thành công chúa khi cưới cho Songtsen Gampo thì được ban danh hiệu 「"Btsan Mo"」, chữ Hán Tán Mông (赞蒙), hoặc Chu Mông (朱蒙) đều là danh hiệu cao cấp của một người vợ của Tán phổ Thổ Phồn, chỉ dưới Hoàng hậu. Bởi vì tài liệu Trung Quốc của các triều đại đều xem các quốc gia là "Vương", không ai vượt qua Thiên tử là Hoàng đế, nên "Hoàng hậu Thổ Phồn" lại được hiểu là Vương hậu. Trong khi Vương Nghiêu liệt hàng "Btasan Mo" chỉ thứ cận Vương hậu, thì bản thư tịch Tạng đã được dịch chữ Hán có tên Hiền giả Hỉ yến (賢者喜宴; A Scholar's Feast) lại liệt Văn Thành công chúa làm Vương hậu. Trước mắt vấn đề sự tồn tại của Xích Tôn công chúa Bhrikuti Devi vẫn còn là một dấu chấm hỏi, thậm chí tài liệu Tạng học như "Tibetan Exiles" của John Powers cũng có nghi vấn về vị "Xích Tôn công chúa" này, thì Văn Thành công chúa là người vợ cả của Songtsen Gampo, hoặc ít nhất xét trong hoàng gia Thổ Phồn thì là 「"Địa vị rất cao"」, điều này còn được thể hiện ở việc sau khi qua thời thì bà được hưởng tế lễ. Trong sách Cựu Đường thư, có chép việc Văn Thành công chúa không thích tục 「"Giả diện"; 赭面」 của người Tạng nên Songtsen Gampo đã cho hủy đi, ngoài ra Văn Thành còn khiến Songtsen Gampo quyết định cử con em đi Trường An học tập, học các loại như Kinh Thi và Kinh Thư. Tục lệ "Giả diện" này là một truyền thống của người Tạng vùng cao, lấy một dạng hợp chất lỏng có màu đỏ để trét lên mặt, là một đặc trưng của người Tạng. Thế nhưng, căn cứ khai quật mộ phần thì đây là quốc tục của người Tạng và không có dấu hiệu đứt gãy hoặc hủy bỏ. Bên cạnh đó, dùng son phấn làm đỏ mặt ngược lại được lưu truyền vào Trung Nguyên, trở thành một đặc trưng trang điểm của triều Đường từ thời Võ Tắc Thiên trở đi. Theo cuốn Thổ Phồn vương triều Thế tập minh giám (吐蕃王朝世袭明鉴), Đường Thái Tông còn trao tặng Songtsen Gampo một bức tượng Phật Thích Ca Mầu Ni bằng vàng, rất nhiều của cải quý báu, có cả 360 quyển kinh thư cùng rất nhiều nhân sự như Y sinh, Dược sĩ và Công nhân kỹ sư, toàn bộ được thuật lại là của hồi môn mà Thái Tông dành cho Văn Thành công chúa. Tuy nhiên cuốn sách này chỉ đơn giản là tổng hợp đủ loại truyền thuyết, độ đáng tin còn chờ một bước khảo nghiệm.

Vào năm 649, là năm Thái Tông qua đời, Đường Cao Tông kế vị, nhà Đường phong cho Songtsen Gampo làm Phò mã Đô úy, tước hiệu là Tây Hải Quận vương (西海郡王). Năm đầu Vĩnh Huy triều Đường Cao Tông (giao thoa 649 đến 650), Songtsen Gampo qua đời. Trong cuộc hôn nhân gần 10 năm, Văn Thành công chúa cùng Songtsen Gampo không có con. Và trong 30 năm tiếp sau đó, bà dẫu đã trở thành góa phụ nhưng vẫn được người dân Thổ Phồn kính trọng. Năm đầu Vĩnh Long (680), Văn Thành công chúa mắc bệnh và mất tại Lhasa. Căn cứ Vu điền giáo pháp sử (于闐教法史) trong nghiên cứu của Vương Nghiêu, Văn Thành được dân chúng Thổ Phồn làm lễ hạ táng theo đúng quy cách, nhà Đường cũng phái quan đến hiến tế.

Ảnh hưởng

[[Chùa Đại Chiêu (Jokhang).]] Cùng với Songtsen Gampo và một người vợ khác của ông là công chúa Nepal Bhrikuti Devi, Văn Thành công chúa được xem như là một trong những người đầu tiên đã đem Phật giáo tới với người Tạng. Tán phổ Songtsen Gampo đã cho xây dựng Jokhang (chùa Đại Chiêu) làm nơi đặt và thờ phụng tượng Phật Thích Ca mà Văn Thành công chúa đã mang tới Thổ Phồn, bản thân công chúa tương truyền cũng cho xây chùa Tiểu Chiêu và nhiều công trình Phật giáo khác, bao gồm chùa Tradruk tại Nêdong. Bắt đầu từ thế kỷ thứ 11, Songtsen Gampo được nhìn nhận như là một Pháp Luân Thánh Vương, luân hồi của Quán Thế Âm Bồ Tát trong văn học Phật giáo , hai người vợ của ông đều được xem là hóa thân của Đa La Bồ Tát . Người Tạng xem Bhrikuti như hóa thân của Lục Độ Mẫu còn Văn Thành công chúa được xem như hóa thân của Bạch Độ Mẫu.

Hiện nay, có rất nhiều nguồn sử liệu Trung Hoa nhận định rằng Văn Thành công chúa là người có vai trò văn hóa lớn, là cầu nối vững mạnh giữa Tạng và Trung Hoa khi đã đưa văn hóa Trung Hoa tới Thổ Phồn, ngoài ra người ta cũng công nhận những ảnh hưởng mang tính 「"Hán hóa"」 của bà trên đất Tạng, như việc ảnh hưởng vô hình khiến Songtsen Gampo cho con cháu quý tộc tới Trường An học tập thi thư, kết giao mạnh mẽ với nhà Đường.

[[Songtsen Gampo (giữa), Bhrikuti Devi (trái) và Văn Thành công chúa (phải).]]

Bản thân Văn Thành công chúa không có con, nhưng vua Thổ Phồn vì nhiều lý do mà thường tự xưng là hậu duệ của bà, xem thế hệ Tán phổ từ thời Songtsen Gampo là 「"Ngoại gia"」 của hoàng tộc họ Lý. Sách Cựu Đường thư có ghi lại bức thư sứ thần đi sứ Thổ Phồn sau khi gặp Kim Thành công chúa như sau: *「"Ngoại sanh thị Tiên Hoàng đế Cữu túc thân, hựu mông hàng Kim Thành công chúa, toại hòa đồng vi Nhất gia, thiên hạ bách tính, phổ giai an lạc"; 外甥是先皇帝舅宿親,又蒙降金城公主,遂和同為一家,天下百姓,普皆安樂。」.

Không bàn đến đây là chủ ý của triều đình nhà Đường, hay là một cách ngoại giao mềm dẻo từ phía Thổ Phồn, sự ảnh hưởng của Văn Thành công chúa lên Tây Tạng đã rất sâu rộng, đến nỗi có thể khiến cả hai phía nhà Đường lẫn Thổ Phồn lợi dụng để đạt được mục đích chính trị của mình. Nhà thơ thời Đường là Trần Đào (陈陶) trong bài "Lũng Tây hành" (陇西行) của mình có bình luận:「"Tự tòng Quý chủ hòa thân hậu, nhất bán Hồ phong tự Hán gia"」, đây được cho là câu ám chỉ mà Trần Đào nói về việc hòa thân giữa triều Đường với Thổ Phồn.

Mang theo vấn đề chính trị, câu chuyện về Văn Thành công chúa gả cho Thổ Phồn có rất nhiều điển tích, một điển tích được biết đến nhiều nhất là Lục thí hôn sử (六试婚使), hoặc Lục nan hôn sử (六难婚使), tức "Sáu lần thi để cưới", một truyền thuyết được cho là bắt nguồn từ văn hóa Hán.

Theo truyền thuyết ấy, sứ giả của Songtsen Gampo là Lộc Đông Tán vượt qua 6 thử thách (hoặc 5 thử thách) do Đường Thái Tông đặt ra để hỏi cưới Công chúa cho Tán phổ. Truyền thuyết nói rằng, khi ấy ở Trường An có tới 5 vị sứ giả của 5 quốc gia, họ đều mang theo những lễ vật quý báu, muốn đón Công chúa triều Đường về làm dâu nước mình. Đường Thái Tông quyết định đưa ra mấy cuộc thi giữa các sứ thần xem ai thông minh nhất rồi sẽ quyết định. Có 6 phần thi là:

Luồn sợi dây tơ qua viên ngọc "Cửu khúc minh châu";

Phân biệt một đàn ngựa gồm một trăm con ngựa mẹ và một trăm con ngựa con;

Trong một ngày uống 100 vò rượu, ăn 100 con dê (một số bản bị lược bỏ);

Giao cho nhóm sứ thần 100 đoạn cây tùng, phân biệt rễ và ngọn (một số bản bị lược bỏ);

Ban đêm ra vào hoàng cung không lạc đường;

Phân biệt trong nhóm Sĩ nữ rằng ai là Công chúa;

Trải qua các phần thi, Lộc Đông Tán thắng lợi và thành công đưa Văn Thành công chúa về Tây Tạng. Lại có truyền thuyết, Văn Thành công chúa trải qua đường đi khó khăn, giữa đường nhớ lời mẹ nhìn vào chiếc Kính được gọi là "Nhật Nguyệt bảo kính" (日月宝镜), hi vọng có thể như mẹ nói mà trông thấy được mẹ, nhưng thứ Văn Thành thấy được lại là khuôn mặt tiều tụy của chính mình. Tức giận, Văn Thành công chúa quăng chiếc kính xuống đất, từ chỗ ấy độn lên một ngọn núi mà ngày nay là núi Nhật Nguyệt (日月山; Riyue Mountain), một ngọn núi mà ngày nay ở Hoàng Nguyên, thành phố Tây Ninh, tỉnh Thanh Hải. Những truyền thuyết này đều đem câu chuyện Văn Thành công chúa là tác nhân cho một sự kiện nào đó tại vùng đất Tây Tạng, cho thấy quá trình lưu truyền và mài giũa của văn hóa Hán đi theo cuộc hôn nhân của bà vào đất Tây Tạng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn Thành công chúa** (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là **Gyamoza** (chữ Tạng: ), Hán ngữ là **Hán Nữ thị** (漢女氏) hoặc **Giáp Mộc Tát Hán công chúa** (甲木薩漢公主;
**Thiên Thành công chúa** (天城公主 1235 - 28 tháng 9, 1288), thường được gọi là **Nguyên Từ Quốc mẫu** (元慈國母), là một công chúa nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Bà được biết đến
:_Bài này viết về một công chúa nhà Minh, đối với công chúa khác có cùng tước hiệu, xem Tùy Văn Đế#Gia quyến._ **An Thành Công chúa** (chữ Hán: 安成公主; 1384 – 16 tháng 9
**Phúc Thanh Công chúa** (chữ Hán: 福清公主; 1370 – 28 tháng 2 năm 1417), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh.
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**An Tư công chúa** (chữ Hán: 安姿公主), 1267-1285, Việt sử tiêu án chép **Thiên Tư công chúa** (天姿公主), công chúa nhà Trần, Hòa thân công chúa, là một trong hai vị công chúa nổi tiếng
**Thái Bình Công chúa** (chữ Hán: 太平公主; 665 - 1 tháng 8, 713), phong hiệu đầy đủ là **Trấn Quốc Thái Bình Công chúa** (鎮國太平公主), công chúa nhà Đường, là một Hoàng nữ của Đường
nhỏ|[[Đền thờ Công chúa Phất Kim ở Hoa Lư]] **Công chúa nhà Đinh** gồm có các con gái của Vua Đinh Tiên Hoàng được ghi chép trong chính sử và dã sử. Nếu như sử
**Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa** (, ; 4 tháng 7 năm 1679 - 4 tháng 4 năm 1735), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ sáu của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là
**Cố Luân Ngao Hán Công chúa** (chữ Hán: 固倫敖漢公主; 1621 – 1654), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng trưởng nữ của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Cuộc đời Cố Luân Ngao Hán Công
**Cố Luân Vinh Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦荣宪公主, 20 tháng 6 năm 1673 - 29 tháng 5 năm 1728), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 3 nhưng lại là người lớn nhất
**Ý Thục Công chúa **(懿淑公主; 1442 - 1477) là công chúa, vương tộc nhà Triều Tiên, vương nữ của Triều Tiên Thế Tổ và Trinh Hi vương hậu Doãn thị, chị gái của Triều Tiên
thumb|[[Tào Quốc Trưởng công chúa|Tào Quốc Trưởng Công chúa - chị gái của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.]] **Trưởng Công chúa** (Phồn thể: 長公主; giản thể: 长公主), là một tước hiệu sử dụng trong
**Công chúa và chàng ếch** (tiếng Anh: **_The Princess and the Frog_**) là bộ phim hoạt hình thứ 49 của hãng hoạt hình Walt Disney, được phát hành vào năm 2009. Bộ phim lấy cảm
**Bùi Văn Thành** (sinh năm 1958) nguyên là một sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam, cấp hàm Đại tá. Ông là cựu Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Ủy viên
**Cố Luân Ôn Trang Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 固倫溫莊長公主; 1625 - 1663), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ hai của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Tiểu sử Cố Luân Ôn
**An Lạc công chúa** (chữ Hán: 安樂公主; 684 - 21 tháng 7, 710), tên thật **Lý Khỏa Nhi** (李裹兒), công chúa nhà Đường, là Hoàng nữ thứ 8 và nhỏ nhất của Đường Trung Tông
**Thái Hòa công chúa** (chữ Hán: 太和公主; _không rõ năm sinh năm mất_), hòa thân công chúa Nhà Đường, là Hoàng nữ của Đường Hiến Tông. Vì mục đích chính trị, bà trở thành công
**Thăng Bình công chúa** (chữ Hán: 昇平公主; ? - 810), họ Lý, không rõ tên, là một công chúa nhà Đường. Trong dân gian, bà nổi tiếng với sự tích [**Túy đả kim chi**; 醉打金枝].
**Cố Luân Hòa Tĩnh công chúa** (chữ Hán: 固伦和静公主; 10 tháng 8 năm 1756 - 9 tháng 2 năm 1775), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 7 của Thanh Cao Tông Càn Long
**Đồng Xương Công chúa** (chữ Hán: 同昌公主; 849 - 870), Công chúa nhà Đường, con gái của Đường Ý Tông Lý Thôi. Bà được biết đến là Công chúa được Đường Ý Tông yêu thương
**Sùng Ninh Công chúa** (chữ Hán: 崇寧公主), không rõ sinh mất cũng như tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh. ## Cuộc đời
**Nghi Phương công chúa** (chữ Hán: 宜芳公主; ? - 745), họ Dương (杨氏), là một hòa thân công chúa nhà Đường, được gả làm vợ cho Hề vương Lý Diên Sủng. Sau đó, Hề vương
**Hàm Ninh Công chúa** (chữ Hán: 咸宁公主; 1385 – 27 tháng 7 năm 1440), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thành Tổ Chu Đệ, hoàng đế thứ hai của nhà Minh. ##
**Hòa Thạc Ôn Khác Công chúa** (chữ Hán: 和硕温恪公主, 1687 - 1709), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 13 của Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Bát Công chúa. ## Cuộc sống
**Huyền Trân Công chúa ** (chữ Hán: 玄珍公主; sinh năm 1287, mất ngày 9 tháng 1 năm 1340), là công chúa đời nhà Trần, Hòa thân công chúa, là con gái của Trần Nhân Tông,
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Công chúa tóc xù** (tên gốc tiếng Anh: **_Brave_**) (còn có tên gọi khác là **Nàng công chúa can đảm**) là phim hoạt hình máy tính thể loại tưởng tượng của Mỹ phát hành năm
**Quán Đào công chúa** (chữ Hán: 馆陶公主, ? - 116 TCN), húy **Lưu Phiêu** (劉嫖), còn được gọi **Đậu Thái chủ** (竇太主), là một Hoàng nữ và là Công chúa nhà Hán. Bà là con
**Cố Luân Ôn Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦温宪公主, 1683 - 1702), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ chín của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Ngũ Công chúa.
thumb|[[Thọ An Cố Luân Công chúa|Cố Luân Thọ An Công chúa và Cố Luân Thọ Ân Công chúa - con gái của Đạo Quang Đế.]] là một phong hào của con gái hoàng đế nhà
**Phụng Dương Công chúa** (chữ Hán: 奉陽公主; 1244 - 1291) là một nữ quý tộc, một Công chúa nhà Trần. Tuy có danh vị Công chúa nhưng bà không phải là một hoàng nữ mà
**Trường Bình công chúa** (chữ Hán: 長平公主; 1629 – 1646), Công chúa nhà Minh, là Hoàng nữ thứ hai của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế. Bà là người con sống lâu nhất của Sùng
**Cố Luân Hoà Hiếu công chúa** (chữ Hán: 固倫和孝公主; 2 tháng 2 năm 1775 - 13 tháng 10 năm 1823), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 10 và nhỏ nhất của Thanh Cao
**Hòa Thạc Khác Thuần Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 和碩恪純長公主; 1641 - 1704), cũng gọi **Kim Phúc công chúa** (金福公主), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 14 của Thanh Thái Tông Hoàng Thái
**Cố Luân Hòa Kính Công chúa** (chữ Hán: 固倫和敬公主; 28 tháng 6, năm 1731 - 15 tháng 8, năm 1792), là Hoàng nữ thứ 3 nhưng là lớn nhất trong những người con gái thành
**Thụy Bảo Công chúa** (chữ Hán: 瑞寶公主, ? - ?) là một công chúa nhà Trần, hoàng nữ thứ ba của Trần Thái Tông trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời ### Thân thế
**Cố Luân Tĩnh Đoan Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 固倫端靖長公主; 1628 - 1686) hay **Cố Luân Đoan Tĩnh Trưởng Công chúa** (固倫端靖長公主), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ ba Thanh Thái Tông Hoàng
**Hòa Thạc Khác Tĩnh Công chúa** (chữ Hán: 和硕悫靖公主, 1689 - 1736), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ 14 của Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Cửu công chúa. ## Cuộc sống Hòa
**Lỗ Nguyên công chúa** (chữ Hán: 鲁元公主; ? - 187 TCN), còn gọi là **Lỗ Nguyên Thái hậu** (魯元太后) là một Hoàng nữ và là Công chúa thời Tây Hán. Bà là Đích trưởng nữ,
**Trinh Ý Công chúa **(貞懿公主, 1415 - 11 tháng 2, 1477) là công chúa nhà Triều Tiên, vương thứ nữ của Triều Tiên Thế Tông và Chiêu Hiến Vương hậu Thẩm thị, em gái của
**Thiên Thụy Công chúa** (chữ Hán: 天瑞公主; ? – 16 tháng 12 năm 1308), là một công chúa nhà Trần. Theo thần tích, bà là người có công lớn trong việc khai khẩn đất hoang,
**Hoà Thạc Hoà Khác Công chúa** (chữ Hán: 和硕和恪公主; 17 tháng 8 năm 1758 – 14 tháng 12 năm 1780), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 9 của Thanh Cao Tông Càn Long
**Trinh Thuận Công chúa **(貞順公主, 1385 - 1460) là công chúa nhà Triều Tiên, trưởng nữ của Triều Tiên Thái Tông và Nguyên Kính Vương hậu Mẫn thị (閔氏). Định Tông năm thứ nhất, 1399,
**Ngạc Ấp công chúa** (chữ Hán: 鄂邑公主; ? — 80 TCN), cũng gọi **Cái chúa** (盖主), **Cái Trưởng công chúa** (蓋長公主) hoặc **Ngạc Ấp Cái Trưởng công chúa** (鄂邑蓋長公主), là một Hoàng nữ và Công
**Công chúa Peach**, hay còn gọi là là một nhân vật hư cấu trong loạt _Mario_ của Nintendo, Miyamoto Shigeru là người sáng tạo ra cô và giới thiệu lần đầu trong _Super Mario Bros._
**Cố Luân Ung Mục Trưởng Công chúa** (, 1629 – 1678) là một Công chúa nhà Thanh, con gái thứ tư của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Tiểu sử Cố Luân Ung Mục
**Cố Luân Đoan Thuận Trưởng Công chúa** (Chữ Hán: 固倫端順長公主, 1636 - 1650), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 11 Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Cuộc đời Cố Luân Đoan Thuận
**Cố Luân Thục Tuệ Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 固倫淑慧長公主, 1632 - 1700), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ năm của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực ## Cuộc sống Theo ghi chép
**Hòa Thạc Trang Kính Công chúa** (Giản thể: 和硕庄敬公主, Phồn thể: 和碩莊敬公主, 30 tháng 1 năm 1782 - 4 tháng 4 năm 1811), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ ba của Gia Khánh