✨Adolf Hitler
Adolf Hitler (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến tới quyền lực với tư cách là chủ tịch Đảng Quốc Xã (NSDAP), Hitler trở thành Thủ tướng Đức vào năm 1933 và sau đó là vào năm 1934. Dưới chế độ độc tài của mình, ông phát động Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu bằng cuộc xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939. Xuyên suốt cuộc chiến, ông trực tiếp tham gia chỉ đạo các hoạt động quân sự của Wehrmacht, đồng thời còn là nhân vật đóng vai trò trung tâm trong cuộc diệt chủng Holocaust dẫn đến cái chết của khoảng sáu triệu người Do Thái và hàng triệu nạn nhân khác.
Hitler sinh ra ở Áo-Hung, lớn lên gần Linz rồi sống ở Viên vào thập kỷ đầu tiên của những năm 1900 trước khi chuyển tới Đức vào năm 1913. Ông từng được tặng thưởng vì phục vụ trong Lục quân Đức thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1919, ông gia nhập Đảng Công nhân Đức, tiền thân của Đảng Quốc Xã rồi trở thành lãnh đạo đảng này vào hai năm sau. Năm 1923, Hitler tiến hành đảo chính ở München nhằm cướp chính quyền, song cuộc đảo chính thất bại còn bản thân Hitler bị kết án 5 năm tù giam. Trong thời gian đó, ông sáng tác tập đầu cuốn tự truyện kiêm tuyên ngôn chính trị ("Cuộc đấu tranh của tôi"). Sau khi được tại ngoại sớm vào năm 1924, Hitler thu hút sự ủng hộ của quần chúng thông qua việc công kích hòa ước Versailles, cổ xúy chủ nghĩa Liên Đức, chủ nghĩa bài Do Thái, chủ nghĩa chống cộng bằng các biện pháp tuyên truyền cùng tài hùng biện lôi cuốn của mình. Ông thường lên án chỉ trích chủ nghĩa tư bản quốc tế và chủ nghĩa cộng sản, cho rằng chúng là một phần của cái gọi là Âm mưu Do Thái.
Tháng 11 năm 1932, tuy giành được nhiều ghế nhất quốc hội song Đảng Quốc Xã không thiết lập được đa số, dẫn đến kết quả là không đảng nào có thể thành lập liên minh chiếm đa số trong nghị viện để ủng hộ một ứng cử viên cho chức thủ tướng. Cựu thủ tướng Franz von Papen cùng các nhà lãnh đạo bảo thủ khác đã thuyết phục Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Không lâu sau đó, Quốc hội thông qua Đạo luật Cho quyền, bắt đầu quá trình chuyển đổi Cộng hòa Weimar thành Đức Quốc Xã, một chế độc độc tài đơn đảng dựa trên ý thức hệ toàn trị và chuyên quyền của chủ nghĩa quốc xã. Hitler hướng tới việc loại bỏ người Do Thái khỏi nước Đức và thiết lập một Trật tự Mới để phản bác trật tự thế giới thời kỳ hậu Thế chiến thứ nhất do Anh và Pháp thống trị mà ông cho là không công bằng. Sáu năm kể từ khi Hitler lên nắm quyền, nền kinh tế Đức phục hồi nhanh chóng sau cuộc Đại suy thoái năm 1929, những hạn chế mà Hòa ước Versailles áp đặt lên nước Đức giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ nhất được bãi bỏ, các vùng lãnh thổ có hàng triệu người dân tộc Đức sinh sống được sáp nhập. Những thành tựu kể trên đã giúp Hitler giành được sự ủng hộ đáng kể từ quần chúng nhân dân.
Hitler khát khao tìm kiếm () cho dân tộc Đức ở Đông Âu. Chính sách đối ngoại hung hăng của ông được xem là nguyên nhân chính dẫn tới sự bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai ở Âu Châu. Ông chỉ đạo công cuộc tái vũ trang quy mô lớn của Quân đội Đức, tiến hành xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, dẫn đến việc cả Anh lẫn Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 6 năm 1941, Hitler phá bỏ hiệp ước Xô-Đức và ra lệnh tấn công Liên Xô. Đến cuối năm đó, quân Đức và các nước thuộc khối Trục châu Âu đã chiếm đóng gần như toàn bộ châu Âu và Bắc Phi. Tuy nhiên, cục diện chiến tranh đã đảo chiều kể từ năm 1942 và sang tới năm 1945 thì nước Đức đã bị quân Đồng Minh áp sát từ mọi phía. Ngày 29 tháng 4 năm 1945, Hitler kết hôn với người tình lâu năm Eva Braun tại ở Berlin. Ngay ngày hôm sau, cả hai cùng nhau tự sát để tránh bị rơi vào tay Hồng quân Liên Xô. Thi thể được hỏa thiêu theo đúng ý nguyện của Hitler.
Sử gia kiêm cây viết tiểu sử Ian Kershaw mô tả Hitler là "hiện thân của cái ác chính trị hiện đại". Dưới sự lãnh đạo của Hitler, chế độ Quốc Xã đã tàn sát khoảng 6 triệu người Do Thái và hàng triệu nạn nhân khác mà họ coi là Untermensch (người hạ đẳng) hoặc "không xứng đáng được tồn tại". Hitler và chế độ Quốc Xã trực tiếp khiến khoảng 19,3 triệu dân thường và tù nhân chiến tranh thiệt mạng. Ngoài ra, khoảng 28,7 triệu binh lính và dân thường đã thiệt mạng do các hoạt động quân sự tại chiến trường châu Âu. Với số thương vong vô tiền khoáng hậu, Thế chiến thứ hai là cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại.
Thân thế
Cha của Hitler, Alois Hitler Sr. (1837–1903), sinh ra tại vùng Waldviertel ở phía tây bắc Viên và là con ngoài giá thú của bà Maria Anna Schicklgruber. Sổ rửa tội không ghi tên cha ruột của Alois nên ban đầu ông mang họ mẹ là Schicklgruber. Khi Alois lên 5 tuổi (1842), bà Maria Anna kết hôn với một công nhân tên là Johann Georg Hiedler, nhưng ông không bao giờ công nhận cậu bé Alois là con mình. Alois được anh trai của Hiedler là Johann Nepomuk Hiedler đem về nuôi dưỡng, dành quãng đời niên thiếu tại gia đình người bác. Một khoảng thời gian sau khi cha mẹ Alois qua đời, Johann Nepomuk lập lời tuyên thệ tại văn phòng công chứng, rằng em trai mình – Johann Georg – là cha ruột của Alois. Vì một lý do nào đó, thay vì ghi là Hiedler, cha xứ lại ghi họ của Alois trong sổ đăng ký khai sinh là Hitler. Kể từ đây, Alois Schicklgruber chính thức đổi thành Alois Hitler. Nguồn gốc của dòng họ Hiedler/Hitler vẫn luôn là một bí ẩn. Ngoài hai cách viết trên, họ này còn có thể viết là Hüttler, hoặc Huettler, và có lẽ có nghĩa là "một người sống trong lều" (lều trong tiếng Đức là "Hütte"). Tuy nhiên, cái tên "Hitler" cũng có thể là phiên âm từ Hidlar hoặc Hidlareek trong tiếng Tiệp Khắc, vì vùng Waldviertel không nằm cách xa biên giới với xứ Böhmen là bao.
Theo Toàn quyền Ba Lan Hans Frank thì trong khoảng thời gian làm hầu gái trong một gia đình Do Thái ở Graz, bà Schicklgruber đã dan díu với thiếu gia 19 tuổi Leopold Frankenberger (hoặc Frankenreither) và sinh ra Alois. Tuy nhiên, giả thuyết này đã bị các sử gia bác bỏ vì thời đó không có ai mang họ Frankenberger trong hồ sơ hộ khẩu ở Graz và cũng chẳng có hồ sơ nào chứng minh về sự tồn tại của người tên Leopold Frankenberger. Ngoài ra thì tại thời điểm đó, người Do Thái đã bị cấm cư trú tại Steiermark hơn 400 năm và chỉ được hợp pháp hóa nhiều thập kỷ sau khi Alois ra đời.
Thiếu thời
Tuổi thơ và giáo dục
upright|thumb|left|Hitler khi còn nhỏ (
Adolf Hitler sinh ngày 20 tháng 4 năm 1889 tại Braunau am Inn, một thị trấn ở Áo-Hung (thuộc Áo ngày nay) nằm gần biên giới với Đế quốc Đức và là con thứ tư trong một gia đình có sáu anh chị em. Cha của Hitler là Alois Hitler, mẹ là người vợ thứ ba đồng thời là cháu gái cột chèo thế hệ thứ hai của Alois – Klara Pölzl. Ba người anh chị em của Hitler – Gustav, Ida và Otto – đều lần lượt chết yểu khi còn bé. Sống cùng Adolf còn có hai anh chị là con của vợ hai: Alois Jr. (sinh năm 1882) và Angela (sinh năm 1883). Năm lên 3 tuổi, Hitler theo gia đình chuyển đến Passau, Đức. Lớn lên tại miền nam nước Đức, phương ngữ đặc trưng vùng Hạ Bayern, thay vì phương ngữ Áo-Đức, dần trở thành tiếng mẹ đẻ của Hitler. Ảnh hưởng từ phương ngữ này đã để lại dấu ấn đậm sâu trong những bài phát biểu sau này của ông. Gia đình Hitler quay về Áo định cư tại Leonding vào năm 1894. Tháng 6 năm 1895, sau khi về hưu, Alois cùng gia đình chuyển về sống trong một khu trang trại tại Hafeld nằm cách Linz không xa để sống bằng nghề trồng trọt và nuôi ong.
Hitler theo học tại một Volksschule (trường tiểu học công lập) gần Fischlham và gây ấn tượng tốt với thầy hiệu trưởng, được đánh giá là "một cậu học trò lanh lợi, ngoan ngoãn nhưng hiếu động". Tuy nhiên, vì gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, bố ông dần trở nên khó tính. Giữa hai cha con bắt đầu nảy sinh xung đột căng thẳng do Hitler không tuân thủ kỷ luật nghiêm ngặt của nhà trường. Dù vợ thường xuyên can ngăn nhưng Alois Hitler vẫn ra tay đánh con. Nỗ lực làm nông an hưởng tuổi già ở Hafeld thất bại, Alois Hitler cùng gia đình chuyển tới sống tại Lambach vào năm 1897. Cậu bé Hitler 8 tuổi học hát, tham gia đoàn hợp xướng của nhà thờ và thậm chí từng nghĩ tới việc trở thành một linh mục. Năm 1898, gia đình Hitler trở về Leonding định cư vĩnh viễn. Việc cậu em trai Edmund qua đời vì bệnh sởi hai năm sau đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hitler. Từ một học sinh tự tin, tận tâm, hướng ngoại, Hitler trở thành một cậu bé sống lạc lõng, bất cần, thường xuyên phản kháng lại cha và giáo viên.
Alois từng có một sự nghiệp thành công ở cục hải quan và muốn con trai nối gót mình. Ông thường cố gắng truyền cảm hứng cho con bằng những câu chuyện trong đời sống công chức của mình, nhưng Hitler lại đam mê nghệ thuật và không có ý định làm theo lời cha. Về sau, khi hồi tưởng về khoảng thời gian này, Hitler nói rằng nghĩ đến việc "phải ngồi trong một văn phòng, đánh mất mọi tự do; không còn làm chủ thời gian của chính mình" khiến ông "ớn đến tận cổ". Hitler đã kịch hóa một tình tiết khi cha đưa ông đến thăm một văn phòng hải quan, nói rằng sự kiện này đã khiến sự rạn nứt giữa cha và con càng trở nên nghiêm trọng vì ai cũng tự cho rằng mình đúng. Alois không tán thành mong muốn gia nhập một trường trung học cổ điển và trở thành họa gia của con. Tháng 9 năm 1900, ông gửi Hitler vào Realschule (trường trung học) ở Linz, chuyên sâu về khoa học và kỹ thuật hơn, nhưng bị con trai phản đối kịch liệt. Trong cuốn Mein Kampf, Hitler có giải thích rằng mình cố tình học hành sa sút, rồi cuối cùng bỏ học là vì muốn chống lại ý cha: "Tôi nghĩ rằng, một ngày nào đó, cha thấy tôi chậm tiến bộ ở trường thì ông ấy sẽ để tôi được theo đuổi đam mê của mình, mặc cho ông ấy có thích hay không".
Tương tự nhiều người Đức–Áo khác, Hitler bắt đầu phát triển tư tưởng dân tộc chủ nghĩa Đức từ khi còn trẻ. Ông trung thành với nước Đức nhưng khinh miệt Đế chế Habsburg đa sắc tộc đang trên đà suy thoái. Hitler và bạn bè thường dùng lời chào "Heil" và hát vang "Deutschlandlied" (Bài ca nước Đức) thay vì quốc ca đế quốc Áo.
Sau khi Alois đột ngột qua đời vào ngày 3 tháng 1 năm 1903, Hitler học tập sa sút và được mẹ cho phép rời trường. Tháng 9 năm 1904, Hitler thuyên chuyển qua trường Realschule ở Steyr, lối hành xử và thành tích học tập của ông đều có tiến bộ. Năm 1905, sau khi vượt qua những kỳ thi cuối cùng, Hitler học hết lớp 10, ra trường mà không có tham vọng học cao hơn hay kế hoạch rõ ràng cho sự nghiệp.
Thời niên thiếu ở Viên và München
thumb|Căn nhà ở [[Leonding|Leonding, Áo, nơi Hitler sống thời niên thiếu (ảnh chụp tháng 7 năm 2012)]]
Năm 1907, với một khoản tiền trợ cấp trẻ mồ côi và sự hỗ trợ từ mẹ, Hitler rời Linz đến sinh sống tại thủ đô Viên của nước Áo. Mang trong mình ước vọng trở thành họa sĩ, Hitler dò hỏi việc theo học Viện Hàn lâm Nghệ thuật Viên, dự định sẽ tham dự kỳ thi tuyển sinh năm sau. Nhưng mộng không thành khi bài dự thi của ông không đủ điểm. Hitler cố thử sức một lần nữa vào năm sau, nhưng tác phẩm của ông không gây được ấn tượng với giáo sư. Nhận thấy các tác phẩm được thực hiện với độ chính xác đặc biệt về kiến trúc, người giáo sư gợi ý chàng thanh niên này nộp đơn xin vào trường kiến trúc. Tuy nhiên Hitler không thể làm theo vì ông không có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
Ngày 21 tháng 12 năm 1908, bà Klara Hitler qua đời vì bệnh ung thư vú ở tuổi 47 khi Hitler mới 18 tuổi. Năm 1909, ở tuổi 19, Hitler bước vào giai đoạn khốn khó của cuộc đời vì hết tiền và buộc phải sống một cuộc sống phóng túng trong những khu nhà dành cho người vô gia cư và khu nhà tập thể dành cho nam và phải dùng bữa ở bếp ăn từ thiện cho qua cơn đói. Ông đảm nhận những công việc thời vụ như quét tuyết, di chuyển hành lý ở ga tàu hỏa, đôi lúc xin làm công nhân xây dựng hoặc phụ hồ. Sau đó, ông hành nghề họa sĩ tự do, bán những bức tranh màu nước vẽ phong cảnh ở Viên cho du khách. Trong khoảng thời gian hành nghề bán tranh dạo tại Viên, tài nghệ hội họa Hitler đã tiến bộ rõ rệt. Ông có thể thực hiện những tác phẩm "chính xác đến nỗi có cảm giác như nó được phác họa lại từ một tấm ảnh". Tuy nhiên, các tác phẩm của Hitler cho thấy ông là một kiến trúc sư hơn là một họa sĩ vì trái hẳn với khả năng thể hiện cấu trúc thiên bẩm của mình, ông "không có kiến thức về tạo hình con người". Cũng trong quãng thời gian sống tại Viên, Hitler ngày càng tỏ rõ đam mê dành cho các môn nghệ thuật khác, đặc biệt là kiến trúc và âm nhạc. Những nhà soạn nhạc yêu thích của Hitler gồm có Schumann, Chopin, Beethoven và đặc biệt là Wagner, đến nỗi ông từng tham dự mười buổi biểu diễn Lohengrin, vở opera Wagner yêu thích của ông.
thumb|left|[[Tranh của Adolf Hitler#The Courtyard of the Old Residency in Munich|The Alter Hof in Munich. Tranh màu nước của Adolf Hitler năm 1914]]
Viên cũng chính là nơi Hitler lần đầu tiên tiếp xúc với những luận điệu phân biệt chủng tộc. Những người theo chủ nghĩa dân túy như thị trưởng Karl Lueger đã khai thác bầu không khí bài Do Thái và đôi khi ủng hộ các quan niệm dân tộc chủ nghĩa Đức nhằm thu lợi ích chính trị. Chủ nghĩa dân tộc Đức đặc biệt hiện hữu ở quận Mariahilf, nơi Hitler sống. Georg Ritter von Schönerer trở thành người có ảnh hưởng lớn đối với Hitler. Ảnh hưởng bởi chủ nghĩa bài Công giáo, ông dần bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhà Kháng cách Martin Luther. Các tờ báo địa phương mà Hitler đọc như __ đã thổi bùng định kiến và thường đề cập đến nỗi lo sợ bị làn sóng người Do Thái từ Đông Âu lấn áp của Kitô hữu. Ông cũng là độc giả thường xuyên của những tờ báo hoặc pamfơlê truyền tải tư tưởng chính trị chủ đạo của các triết gia và lý thuyết gia như Houston Stewart Chamberlain, Charles Darwin, Friedrich Nietzsche, Gustave Le Bon và Arthur Schopenhauer. Nguồn gốc và sự phát triển của chủ nghĩa bài Do Thái trong con người Hitler vẫn còn là một đề tài được các học giả tranh luận. Bạn của Hitler, August Kubizek, khẳng định Hitler đã là một "người bài Do Thái lâu năm" trước khi rời Linz; nhưng nữ sử gia Brigitte Hamann lại cho rằng lời tuyên bố trên "có vấn đề". Cuốn Mein Kampf viết rằng Hitler bắt đầu trở thành một người bài Do Thái khi ở Viên, nhưng một người từng giúp ông bán tranh tên Reinhold Hanisch không tán thành. Hitler được cho là từng có những bằng hữu người Do Thái hồi còn sống ở ký túc xá cùng nhiều nơi khác tại Viên. Sử gia Richard J. Evans phát biểu rằng "các sử gia hiện nay nhìn chung đồng tình rằng tư tưởng bài Do Thái của Hitler phát triển sau thất bại của Đức [trong thế chiến I] để lý giải hoang tưởng về "cú đâm sau lưng" cho thảm họa [trong Thế chiến I]".
Tháng 5 năm 1913, Hitler nhận phần tài sản cuối cùng của cha và chuyển đến München, Đức. Khi nhận được giấy gọi vào Quân đội Áo-Hung, ông lên đường đến Salzburg vào ngày 5 tháng 2 năm 1914 để tiến hành kiểm tra y tế, nhưng không đủ sức khỏe nên quay về München. Sau này Hitler tuyên bố rằng ông không muốn phục vụ Đế chế Habsburg vì quân đội đế quốc này là "một mớ chủng tộc hỗn tạp", đồng thời tin rằng đế quốc Áo-Hung sắp sụp đổ.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
thumb|upright|Hitler (ngồi ngoài cùng bên phải) với các chiến hữu thuộc Trung đoàn Bộ binh Dự bị Bayern số 16 ()
Tháng 8 năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Hitler khi ấy đang sống ở München đã tự nguyện gia nhập quân đội Vương quốc Bayern. Theo một báo cáo năm 1924 của chính quyền bang Bayern, việc Hitler có mặt trong quân đội gần như chắc chắn là lỗi ở khâu quản lý, bởi lẽ vì là một công dân Áo thì Hitler đáng lý phải trở về Áo. Ông được gửi lên Trung đoàn Bộ binh Dự bị Bayern số 16 và làm giao liên trên Mặt trận phía Tây ở Pháp và Bỉ. Hitler dành gần một nửa thời gian để hoạt động tại trụ sở trung đoàn ở Fournes-en-Weppes, ngay phía sau chiến tuyến Pháp–Đức. Ông tham chiến trong trận Ypres lần thứ nhất, trận Somme, trận Arras và trận Passchendaele. Hitler được cấp trên khen ngợi và tặng thưởng huân chương Thập tự sắt vào năm 1914 vì tinh thần quả cảm. Theo lời giới thiệu của cấp trên – Trung úy người Do Thái Hugo Gutmann, Hitler được trao tặng huân chương Thập tự sắt hạng nhất vào ngày 4 tháng 8 năm 1918, một phần thưởng hiếm khi được trao cho người đeo lon Gefreiter (tương đương Hạ sĩ) như Hitler. Ông nhận Huy hiệu Thương tích màu Đen vào ngày 18 tháng 5 năm 1918.
Hitler tiếp tục theo đuổi đam mê nghệ thuật trong thời gian tại ngũ. Ông đảm nhiệm vẽ tranh biếm họa và chỉ dẫn cho một tờ báo quân đội. Trong trận Somme diễn ra vào tháng 10 năm 1916, ông bị thương ở đùi trái khi một viên đạn phát nổ trong hầm trú ẩn. Hitler mất gần hai tháng trị liệu tại Beelitz trước khi quay lại tiền tuyến ngày 5 tháng 3 năm 1917. Ngày 15 tháng 10 năm 1918, ông bị mù tạm thời trong một cuộc tấn công bằng khí mù tạt và được đưa đi cấp cứu ở Pasewalk. Theo lời kể của chính Hitler thì sau khi bình phục, ông bị mù lần thứ hai khi hay tin nước Đức bại trận.
Hitler mô tả cuộc chiến là trải nghiệm "vĩ đại nhất trong tất cả các trải nghiệm" và bản thân ông từng được cấp trên tán dương vì lòng dũng cảm. Trải nghiệm chiến tranh đã củng cố lòng ái quốc của Hitler. Do đó sự đầu hàng của Đức vào tháng 11 năm 1918 là một cú sốc tinh thần, một cảm giác cay đắng dần định hình ý thức hệ của ông. Tương tự những người cũng theo chủ nghĩa dân tộc Đức, Hitler tin vào Huyền thoại đâm sau lưng: quân đội Đức "không bị đánh bại trên chiến trường" mà bị "đâm sau lưng" bởi các lãnh đạo dân sự, những người Do Thái và người theo chủ nghĩa Marx tại quê nhà. Những nhân vật đại diện Đức đứng ra ký hiệp định đình chiến về sau bị người trong nước mỉa mai là "những tên tội đồ tháng 11" (Novemberverbrecher).
Hòa ước Versailles quy định nước Đức phải từ bỏ một số lãnh thổ và phi quân sự hóa vùng Rheinland, đồng thời áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế kèm một khoản bồi thường chiến tranh khổng lồ. Nhiều người Đức xem hòa ước này là một sự sỉ nhục. Họ đặc biệt phản đối Điều 231, cho rằng điều khoản này tuyên bố Đức là thủ phạm gây ra Chiến tranh thế giới thứ nhất. Hòa ước Versailles cũng như tình hình kinh tế, xã hội và chính trị nước Đức thời hậu chiến đã được Hitler khai thác để phục vụ các mục tiêu chính trị.
Bước vào chính trường
thumb|Thẻ đảng viên [[Đảng Công nhân Đức (DAP) của Hitler]] Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hitler quay về München. Không có bằng cấp giáo dục chính thức cũng như triển vọng nghề nghiệp, ông chọn tiếp tục phục vụ tại ngũ. Tháng 7 năm 1919, ông được bổ nhiệm làm Verbindungsmann (mật vụ tình báo) của một Aufklärungskommando (đơn vị trinh sát) thuộc quân đội, nhận nhiệm vụ chi phối những binh sĩ khác và nằm vùng trong Đảng Công nhân Đức (DAP). Trong một buổi họp đảng DAP vào ngày 12 tháng 9 năm 1919, Chủ tịch Đảng Anton Drexler rất ấn tượng với tài diễn thuyết của Hitler, tặng cho Hitler cuốn tự truyện Mein politisches Erwachen (Sự thức tỉnh chính trị của tôi) chứa đựng những tư tưởng bài Do Thái, chủ nghĩa dân tộc, bài tư bản và bài chủ nghĩa Marx. Theo lệnh cấp trên, Hitler nộp đơn xin gia nhập đảng và trở thành đảng viên số 555.
Cũng trong khoảng thời gian đó, đây là lần đầu tiên Hitler thể hiện chính kiến của mình về dân tộc Do Thái trong một bức thư gửi Gemlich, cho rằng mục tiêu tiên quyết của chính phủ Đức "chắc chắn phải là loại bỏ hoàn toàn" dân tộc này.
Sau khi gia nhập DAP, Hitler gặp Dietrich Eckart, một trong những nhà sáng lập đảng và thành viên của Hội Thule, một nhóm Völkisch huyền bí. Eckart trở thành cố vấn của Hitler, hai người cùng trao đổi ý kiến, đồng thời giới thiệu Hitler với nhiều người trong xã hội München. Để tăng sức thu hút, DAP đổi tên thành Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei (Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa, NSDAP; gọi tắt là Đảng Quốc Xã). Hitler thiết kế cờ đảng với hình tượng một chữ vạn nằm trong hình tròn màu trắng trên nền đỏ.
Ngày 31 tháng 3 năm 1920, Hitler giải ngũ và bắt đầu dành toàn bộ thời gian cho NSDAP. Trụ sở chính của đảng nằm tại München, nơi tập trung những người theo dân tộc chủ nghĩa Đức chống chính phủ, mưu đồ bóp chết chủ nghĩa Marx và phá hoại nền dân chủ của Cộng hòa Weimar. Tháng 2 năm 1921 — vốn đã rất biết cách lôi kéo đám đông — Hitler đứng ra phát biểu trước đám đông hơn 6.000 người. Nhằm quảng bá sự kiện, đảng cho hai xe tải chạy vòng quanh München vẫy cờ chữ vạn và phân phát tờ rơi. Hitler nhanh chóng nổi tiếng nhờ những bài diễn văn luận chiến đả kích hòa ước Versailles, các chính khách đối địch và đặc biệt phản đối gay gắt những người theo chủ nghĩa Marx cũng như người Do Thái.
Trở thành nhà lãnh đạo Đảng Quốc Xã
left|upright|thumb|Chân dung Hitler vào nửa đầu thập niên 1920 Tháng 6 năm 1921, khi Hitler và Eckart đang trên đường tới Berlin để gây quỹ, nội bộ Đảng Quốc Xã xảy ra nội loạn. Các ủy viên ban chấp hành muốn sáp nhập với Đảng Xã hội chủ nghĩa Đức (DSP) có trụ sở ở Nürnberg. Ngày 11 tháng 7, Hitler quay về München và giận dữ đòi từ chức. Các ủy viên nhận ra rằng việc từ chức của một nhân vật quần chúng kiêm diễn giả hàng đầu của họ đồng nghĩa với dấu chấm hết của đảng. Hitler tuyên bố sẽ tái gia nhập với điều kiện ông phải làm chủ tịch đảng thay Drexler, đồng thời trụ sở chính vẫn phải ở München. Ban chấp hành đồng ý; Hitler tái gia nhập đảng vào ngày 26 tháng 7 với tư cách thành viên 3.680. Song sau đó, Hitler phải tiếp tục đối mặt với một số chống đối từ nội bộ đảng. Đấu tranh phe phái trong giới lãnh đạo khiến Hermann Esser bị khai trừ. Đối thủ của Hitler còn cho in 3.000 cuốn sách mỏng công kích gọi ông là kẻ phản bội. Những ngày sau, Hitler liên tục diễn thuyết trong các ngôi nhà chật cứng người, lên tiếng bào chữa cho bản thân và Esser trước những tiếng vỗ tay hưởng ứng vang như sấm dội. Chiến lược của ông thành công và tại kỳ đại hội đảng đặc biệt diễn ra vào ngày 29 tháng 7, Hitler được chấp thuận trao toàn quyền chủ tịch đảng thay Drexler một cách tuyệt đối, với tỉ lệ 533 phiếu thuận 1 phiếu chống.
Những bài phát biểu mang tính châm chọc tại quán bia của Hitler bắt đầu thu hút một nhóm khán giả quen thuộc. Là một kẻ mị dân, Hitler trở thành bậc thầy trong việc vận dụng các chủ đề dân túy, bao gồm cả việc sử dụng vật tế thần để đổ lỗi cho những khó khăn kinh tế mà khán thính giả phải gánh chịu. Hitler tận dụng sức hấp dẫn của bản thân cùng sự am hiểu tâm lý đám đông khi diễn thuyết trước công chúng. Theo nhiều sử gia, trước đám đông lớn, Hitler sử dụng tài hùng biện để lôi kéo, còn trước một nhóm nhỏ, ông lại sử dụng ánh mắt như một hiệu ứng thôi miên.
Trong số những người đầu tiên đi theo Hitler có thể kể tới một vài gương mặt nổi bật như Rudolf Hess, cựu phi công "Ách" Hermann Göring và Ernst Röhm. Röhm trở thành thủ lĩnh Sturmabteilung (SA, Binh đoàn bão táp) – tổ chức bán quân sự Quốc Xã có nhiệm vụ bảo vệ các cuộc hội họp và tấn công các đối thủ chính trị. Yếu tố mang tính ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng của Hitler trong giai đoạn này là Aufbau Vereinigung (Tổ chức tái thiết), một nhóm âm mưu gồm những người Bạch vệ lưu vong của Nga cùng những người theo chủ nghĩa quốc xã thời kỳ đầu. Aufbau Vereinigung là một nhóm kín nhận tài trợ từ các nhà tư bản công nghiệp giàu có. Cũng chính họ đã giới thiệu cho Hitler về khái niệm "âm mưu Do Thái", liên kết nền tài chính quốc tế với chủ nghĩa Bolshevik.
Cương lĩnh Đảng Quốc Xã được trình bày lần đầu trong Cương lĩnh 25 điểm vào ngày 24 tháng 2 năm 1920. Cương lĩnh Đảng Quốc Xã không đại diện cho một hệ tư tưởng nhất quán, mà là sự kết hợp của các ý tưởng chủ đạo của phong trào Völkisch Liên Đức, bao gồm chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản đối Hòa ước Versailles, hoài nghi chủ nghĩa tư bản và một số ý tưởng xã hội chủ nghĩa khác. Tuy nhiên, đối với Hitler, khía cạnh quan trọng nhất của cương lĩnh này chính là lập trường bài Do Thái mạnh mẽ. Ông cũng xem đây là cơ sở để tuyên truyền và thu hút mọi người gia nhập đảng.
Đảo chính quán bia và nhà tù Landsberg
nhỏ|Các bị cáo trong phiên tòa xử vụ đảo chính nhà hàng bia. Từ trái sang phải: [[Heinz Pernet, Friedrich Weber, Wilhelm Frick, Hermann Kriebel, Erich Ludendorff, Hitler, Wilhelm Brückner, Ernst Röhm và Robert Wagner.]]
Năm 1923, Hitler tranh thủ sự giúp đỡ của danh tướng Đức thời Thế chiến I Erich Ludendorff để tiến hành một cuộc đảo chính có chủ đích, sử gọi là "Đảo chính quán bia". Đảng Quốc Xã lấy Chủ nghĩa Phát xít Ý làm hình mẫu cho diện mạo và chính sách của họ. Hitler muốn tái hiện "Cuộc hành quân ở Roma" năm 1922 của Benito Mussolini bằng cách dàn dựng một cuộc đảo chính tương tự để giành chính quyền Bayern trước khi thách thức chính phủ Cộng hòa Weimar ở Berlin. Hitler và Ludendorff cố gắng thuyết phục Staatskommissar (ủy viên bang) Gustav Ritter von Kahr, nhà cai trị de facto của Bayern, ủng hộ mình. Tuy nhiên 3 người Kahr, chánh cảnh sát Hans Ritter von Seisser và tướng Otto von Lossow của Reichswehr đã đồng thuận ngầm với nhau và muốn thiết lập một chế độ độc tài dân tộc chủ nghĩa mà không có Hitler.
Ngày 8 tháng 11 năm 1923, Hitler cùng lực lượng SA xông vào một hội nghị 3.000 người do Kahr tổ chức tại Bürgerbräukeller, một quán bia ở München. Cắt ngang bài phát biểu của Kahr, Hitler thông báo với đám đông rằng cuộc cách mạng quốc gia đã bắt đầu và cùng Ludendorff tuyên bố thành lập chính phủ mới. Khi lui về hậu phòng, Hitler rút súng uy hiếp Kahr, Seisser và Lossow phải ủng hộ mình. Ban đầu, lực lượng của Hitler chiếm cứ thành công trụ sở Reichswehr và cảnh sát địa phương, nhưng nhóm người của Kahr đã nhanh chóng trở mặt. Cả quân đội lẫn cảnh sát đều không hiệp lực cùng Hitler. Hôm sau, Hitler cùng những người ủng hộ diễu hành từ nhà hàng bia đến Bộ Chiến tranh Bayern ý đồ giành chính quyền, song bị cảnh sát sử dụng hỏa lực ép phải giải tán. Mười sáu thành viên Đảng Quốc Xã và bốn sĩ quan cảnh sát đã thiệt mạng trong cuộc đảo chính bất thành.
thumb|Bìa bọc sách [[Mein Kampf (ấn bản 1926–28)]]
Hitler trốn chạy đến nhà của Ernst Hanfstaengl và theo một số báo cáo là đã có ý định tự sát. Ông tỏ ra chán nản nhưng sớm lấy lại sự bình tĩnh khi bị bắt vì tội phản quốc vào ngày 11 tháng 11 năm 1923. Phiên xử Hitler tại Tòa án Nhân dân Đặc biệt ở München bắt đầu vào tháng 2 năm 1924; Alfred Rosenberg trở thành lãnh đạo tạm thời của Đảng Quốc Xã. Ngày 1 tháng 4, Hitler bị kết án 5 năm tù và được đưa tới nhà tù Landsberg. Tại đây, Hitler được các cai ngục đối xử thân thiện, được phép nhận bưu phẩm từ những người ủng hộ cũng như thường xuyên được các đồng chí trong đảng ghé thăm. Mặc cho các công tố viên bang phản đối, Hitler được Tối cao Pháp viện Bayern ân xá và chính thức được tại ngoại vào ngày 20 tháng 12 năm 1924. Tính cả thời gian tạm giam, Hitler chỉ ngồi tù có hơn một năm.
Chính trong thời gian thi hành án, Hitler đã sáng tác phần lớn đoạn đầu của Mein Kampf. Ông không đích thân viết mà đứng đọc cho Emil Maurice rồi sau đó là cấp phó Rudolf Hess chép lại. Đây là cuốn tự truyện thể hiện tư tưởng, quan điểm chính trị và được Hitler đề tặng thành viên Dietrich Eckart của Hội Thule. Mein Kampf đề ra kế hoạch biến đổi xã hội Đức thành một xã hội dựa trên thuyết chủng tộc. Xuyên suốt tác phẩm, người Do Thái bị coi là "mầm bệnh", "kẻ đầu độc quốc tế" của xã hội. Hitler cho rằng giải pháp duy nhất để giải quyết triệt để vấn đề Do Thái này chính là tiêu diệt họ. Theo Ian Kershaw, mặc dù Hitler không mô tả chính xác cách thức thực hiện, nhưng "cái suy nghĩ tận diệt [người Do Thái] hiện hữu trong con người y là không thể chối cãi".
Mein Kampf được xuất bản thành hai cuốn vào các năm 1925–1926 và bán được 228.000 bản trong giai đoạn 1925–1932. Tổng cộng có một triệu bản được bán ra vào năm 1933, năm đầu tiên Hitler nắm quyền thủ tướng. Ngay trước khi Hitler đủ điều kiện để được ân xá, chính phủ Bayern đã cố gắng trục xuất ông về Áo, nhưng Thủ tướng Liên bang Áo từ chối với lý do Hitler đã phục vụ trong Lục quân Đức nên không còn tư cách công dân Áo. Đáp trả, Hitler chính thức từ bỏ quốc tịch Áo vào ngày 7 tháng 4 năm 1925.
Tái thiết Đảng Quốc Xã
Vào thời điểm Hitler ra tù, tình hình chính trị ở Đức đã dần mất tính cạnh tranh. Nền kinh tế và đời sống được cải thiện khiến cơ hội kích động chính trị của ông bị hạn chế. Sau thất bại của cuộc Đảo chính quán bia, Đảng Quốc Xã cùng các tổ chức liên đới bị cấm hoạt động ở Bayern. Trong cuộc gặp với Thống đốc Bayern Heinrich Held vào ngày 4 tháng 1 năm 1925, Hitler đồng ý tôn trọng thẩm quyền của nhà nước và cam kết sẽ chỉ mưu cầu quyền lực chính trị thông qua tiến trình dân chủ. Kết quả là lệnh cấm Đảng Quốc Xã được dỡ bỏ vào ngày 16 tháng 2. Tuy nhiên, sau một bài diễn văn mang tính kích động vào ngày 27 tháng 2, chính quyền Bayern đã phát lệnh cấm Hitler phát biểu trước đám đông trong vòng 2 năm. Để xúc tiến tham vọng chính trị, Hitler giao phó nhiệm vụ tổ chức và phát triển đảng ở miền bắc cho Gregor Strasser, Otto Strasser và Joseph Goebbels. Trong ba nhân vật này, Gregor Strasser đi theo đường lối chính trị độc lập hơn và thường cố gắng thúc đẩy các yếu tố xã hội chủ nghĩa của cương lĩnh đảng.
Ngày 24 tháng 10 năm 1929, thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ sụp đổ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nước Đức: hàng triệu người mất việc làm và một vài ngân hàng lớn bị phá sản. Hitler và Đảng Quốc Xã lúc bấy giờ đã sẵn sàng để khai thác tình thế nhằm thu hút sự ủng hộ của quần chúng. Họ hứa sẽ dẫn dắt nước Đức thoát khỏi xiềng xích của Hòa ước Versailles, củng cố nền kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người dân.
Lên nắm quyền
Chính quyền Brüning
Cuộc Đại khủng hoảng mang đến thời cơ chính trị cho Hitler. Người Đức tỏ ra mâu thuẫn với thể thức cộng hòa đại nghị vốn đang phải đối mặt với những thách thức từ những thành phần cực đoan từ cả cánh hữu lẫn cánh tả. Các đảng chính trị ôn hòa ngày càng bất lực trước làn sóng chủ nghĩa cực đoan và cuộc trưng cầu dân ý năm 1929 đã góp phần nâng tầm ý thức hệ Quốc Xã. Sau các cuộc bầu cử diễn ra vào tháng 9 năm 1930, đại liên minh cầm quyền trong quốc hội tan rã và được thay thế bởi một nội các thiểu số. Đứng đầu là thủ tướng Heinrich Brüning của Đảng Trung tâm, nội các mới điều hành thông qua các sắc lệnh khẩn cấp của tổng thống Paul von Hindenburg. Cai trị bằng sắc lệnh đã trở thành quy phạm mới, mở đường cho các dạng chính quyền chuyên chế. Từ chỗ ít tên tuổi, Đảng Quốc Xã nổi lên giành 18.3% số phiếu và 107 ghế trong cuộc bầu cử năm 1930, trở thành chính đảng lớn thứ hai Quốc hội Đức.
thumb|Hitler và thủ quỹ đảng [[Franz Xaver Schwarz tại lễ khởi công nâng cấp dinh thự Palais Barlow trên phố Brienner Straße ở München thành tổng hành dinh Nhà Nâu, tháng 12 năm 1930]]
Cuối năm 1930, Hitler xuất hiện nổi bật tại phiên tòa xét xử hai sĩ quan Reichswehr, trung úy Richard Scheringer và Hans Ludin. Hai người này bị buộc tội vì gia nhập Đảng Quốc Xã – một điều bất hợp pháp đối với sĩ quan quân đội tại thời điểm đó. Bên nguyên lập luận rằng Đảng Quốc Xã là một đảng cực đoan, yêu cầu luật sư bào chữa Hans Frank mời Hitler ra làm chứng trước tòa. Ngày 25 tháng 9 năm 1930, Hitler xác nhận đảng của ông sẽ chỉ theo đuổi quyền lực thông qua bầu cử dân chủ, qua đó giành được nhiều sự ủng hộ trong giới sĩ quan.
Các biện pháp thắt lưng buộc bụng của Brüning không những không cải thiện tình hình kinh tế một cách đáng kể mà còn cực kỳ không được lòng dân. Hitler đã khai thác điều này bằng cách nhắm thông điệp chính trị cụ thể tới những đối tượng chịu tác động bởi cuộc lạm phát thập niên 1920 và thời kỳ suy thoái, chẳng hạn như nông dân, cựu chiến binh và tầng lớp trung lưu.
Sau khi từ bỏ quốc tịch Áo vào năm 1925, Hitler vô quốc tịch trong gần 7 năm do không nhập tịch Đức. Tức là ông không thể ứng cử vào chức vụ nhà nước một cách hợp pháp và phải đối mặt với nguy cơ bị trục xuất. Ngày 25 tháng 2 năm 1932, Bộ trưởng Nội vụ Braunschweig đồng thời là một thành viên của Đảng Quốc Xã Dietrich Klagges bổ nhiệm Hitler làm quản lý viên phái đoàn bang tới Reichsrat ở Berlin, giúp Hitler trở thành công dân của Braunschweig, qua đó cũng là công dân Đức. Sau khi nhận quyền công dân, Hitler được đặc cách nghỉ phép vô thời hạn nhằm dành thời gian cho "mưu cầu chính trị", nhưng trên danh nghĩa vẫn là viên chức Braunschweig cho đến khi nhậm chức thủ tướng Đức.
Hitler ra tranh cử với Hindenburg trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932. Bài phát biểu của ông trước Hiệp hội Công nghiệp ở Düsseldorf vào ngày 27 tháng 1 giành được sự ủng hộ từ nhiều nhà tư bản công nghiệp quyền lực nhất nước Đức. Còn Hindenburg nhận sự ủng hộ từ các đảng dân tộc chủ nghĩa, quân chủ, công giáo và cộng hòa, cũng như một số đảng viên Dân chủ Xã hội. Hitler sử dụng khẩu hiệu "Hitler über Deutschland" (Hitler phía trên nước Đức), ám chỉ tới tham vọng chính trị và chiến dịch vận động tranh cử bằng máy bay của mình. Ông là một trong những chính trị gia đầu tiên sử dụng máy bay cho mục đích chính trị và đã sử dụng nó một cách hiệu quả. Hitler về nhì trong cả hai vòng bầu cử, chỉ giành được hơn 35% số phiếu ở vòng cuối so với 53% phiếu của Hindenburg. Nhiều cử tri đảng SPD đã "nhắm mắt" bỏ phiếu cho Hindenburg sau khi được Brüning thuyết phục, mục đích nhằm ngăn Hitler chiến thắng cũng như để bảo toàn nền dân chủ Weimar. Tuy tái đắc cử, Hindenburg vẫn bổ nhiệm Franz von Papen lên thay Brüning làm thủ tướng, đồng thời giải tán quốc hội một lần nữa. Dù thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống lần này, Hitler đã xác lập được vị thế của mình như một thế lực trong giới chính trị Đức.
Trở thành thủ tướng Đức
nhỏ|trái|Phân chia ghế trong Reichstag sau cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 1932. Tuy vẫn là đảng mạnh nhất nhưng Đảng Quốc Xã chỉ giành được 196 ghế, sụt giảm đáng kể so với 230 ghế tại cuộc bầu cử trước đó vào tháng 7.
Trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 7 năm 1932, Đảng Quốc Xã trở thành đảng mạnh nhất với 37,3% phiếu. Tuy nhiên, vì những lục đục chính trị nên chỉ sau buổi họp quốc hội lần hai vào ngày 12 tháng 9, Hindenburg lại giải tán quốc hội và cai trị chuyên chế thông qua Nghị định khẩn cấp (Notverordnung). Tại cuộc bầu cử tháng 11 năm 1932, tuy mất đi một lượng lớn phiếu bầu và chỉ còn 33,1% nhưng Đảng Quốc Xã vẫn là đảng mạnh nhất quốc hội. Trong số các đảng đối lập, Đảng Cộng sản Đức giành thêm ghế với 16,9% số phiếu, trở thành đảng mạnh thứ ba. Việc hai đảng cực hữu và cực tả chiếm 50% số phiếu khiến các đảng có lập trường ủng hộ dân chủ, bao gồm SPD và Trung tâm, không thể tạo dựng liên minh đa số. Trước tình hình trên, Papen tuyên bố từ chức và thiết lập một chính phủ tạm quyền. Papen phát biểu trước nội các của mình rằng ông muốn áp đặt thiết quân luật và lợi dụng Nghị định khẩn cấp để biến mình thành độc tài. Song cấp dưới liền khuyên can Papen rằng đó là điều bất khả thi, bởi lẽ quân đội Đức khi đó khó có thể duy trì trật tự trước phe quốc xã và cộng sản.
Trong mắt nhiều người, mà trong đó có nhiều nhà tư bản công nghiệp quyền lực theo tư tưởng bảo thủ, thì Hitler là một người phù hợp cho vị trí thủ tướng. Hjalmar Schacht cùng nhiều nhân vật quyền lực trong ngành công nghiệp, nông nghiệp và kinh tế đã gửi "tâm thư" đề nghị Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm người đứng đầu một chính phủ "độc lập khỏi mọi đảng phái quốc hội" – một hành động có thể "khiến hàng triệu người mê mẩn". Một trong những nguyên nhân khiến những nhân vật này ủng hộ Hitler là vì họ muốn dựa vào Đảng Quốc Xã để phục vụ cho tham vọng riêng, bao gồm "loại bỏ vĩnh viễn KPD, SPD và các tổ chức công đoàn", giải phóng nước Đức khỏi xiềng xích của Hòa ước Versailles và cuối cùng chính là tái khởi động chương trình sản xuất vũ khí để thu lợi nhuận. Họ cho rằng mình có thể "kiềm chế" và "thuần hóa" Hitler. Hindenburg không phê chuẩn lời đề nghị trên và để phòng ngừa nội chiến xảy ra, cũng như lo ngại Reichswehr sẽ không áp chế nổi các lực lượng dân quân của Đảng Quốc Xã lẫn Đảng Cộng Sản, ông bổ nhiệm Kurt von Schleicher làm thủ tướng vào ngày 3 tháng 12 năm 1932.
Schleicher định chia rẽ Đảng Quốc Xã bằng sách lược Querfront (Mặt trận chéo). Lãnh đạo phe cánh tả của Đảng Quốc Xã là Gregor Strasser đồng ý với lời đề nghị gia nhập nội các của Schleicher để trở thành phó thủ tướng. Tuy nhiên, Hitler từ chối từ bỏ yêu sách đối với chức vị thủ tướng. Trong một cuộc họp đảng, Hitler sử dụng nước mắt và dọa tự tử, qua đó thuyết phục được các thành viên trong đảng ủng hộ mình. Trước sức ép, Strasser phải từ chức vào ngày 8 tháng 12. Và như vậy các cố vấn bảo thủ của Hindenburg đã thất bại trong nỗ lực lôi kéo Đảng Quốc Xã vào chính phủ mà không trao chức vị thủ tướng cho Hitler.
thumb|Hitler, đứng ở cửa sổ [[Phủ Thủ tướng, đón nhận sự tung hô từ đám đông trong buổi tối ngày nhậm chức, 30 tháng 1 năm 1933]]
Cuộc gặp giữa Hitler và Papen hôm 4 tháng 1 năm 1933 được xem là "giây phút khai sinh Đệ tam Đế chế". Hitler thuyết phục được Papen ủng hộ mình sau khi đề nghị ông trở thành phó thủ tướng, sở hữu đặc quyền được phép phản đối mọi đề xuất từ phía văn phòng thủ tướng đệ trình lên Hindenburg, còn các vị trí bộ trưởng cổ điển vẫn sẽ do các chính khách bảo thủ nắm giữ. Cả Papen lẫn Hugenberg của Đảng Nhân dân Quốc gia Đức (DNVP) đều tự tin rằng họ có thể "kiểm soát" và "thuần hóa" thủ tướng Hitler khi mà người của họ đều giữ các vị trí quan trọng của chính phủ. Chính quyền của Schleicher dần bị cô lập, đặc biệt là khi thiếu đi sự chống lưng từ Reichswehr sau khi Tướng Werner von Blomberg, một nhân vật thân Quốc Xã, trở thành Bộ trưởng Quân đội. Schleicher đã xin từ chức sau khi Hindenburg từ chối mở một cuộc bầu cử mới. Hết lựa chọn, Hindenburg miễn cưỡng bổ nhiệm người mà ông gọi là "Hạ sĩ xứ Böhmen" làm thủ tướng.
Ngày 30 tháng 1 năm 1933, nội các mới tuyên thệ nhậm chức trong một buổi lễ ngắn gọn tại văn phòng của Hindenburg. Theo thỏa thuận, gần như toàn bộ mọi vị trí trong nội các Hitler đều là đảng viên DNVP. Ngoài Hitler, Đảng Quốc Xã còn có Wilhelm Frick trở thành Bộ trưởng Nội vụ Đức còn Hermann Göring trở thành Bộ trưởng Nội vụ Phổ, nắm trong tay quyền chỉ huy lực lượng cảnh sát của quốc gia lớn nhất trực thuộc Cộng hòa Weimar. Sở hữu những vị trí then chốt, Đảng Quốc Xã tuy không chiếm đa số trong nội các nhưng lại nắm quyền kiểm soát nền chính trị trong nước.
Vụ hỏa hoạn tòa nhà Reichstag và các cuộc bầu cử tháng 3
Ngay sau khi chuyển đến văn phòng phủ thủ tướng tại Alte Reichskanzlei (Phủ Thủ tướng cũ), Hitler được cho là đã tuyên bố rằng "không thế lực nào trên thế giới này có thể đưa ta sống sót ra khỏi đây", hàm ý rằng ông sẽ giữ vững chức vị này cho đến hết đời. Trên cương vị thủ tướng, Hitler dùng các biện pháp để ngăn chặn nỗ lực tạo dựng chính phủ đa số của các đảng phái đối lập. Bởi tình hình chính trị bế tắc, Hitler yêu cầu Hindenburg giải tán Reichstag (quốc hội) một lần nữa và lên kế hoạch tiến hành các cuộc bầu cử mới vào đầu tháng 3.
Ngày 27 tháng 2 năm 1933, tòa nhà Reichstag bị cháy. Göring đổ lỗi cho phe Cộng sản, vì đảng viên Cộng sản người Hà Lan Marinus van der Lubbe bị phát hiện là có mặt tại hiện trường lúc xảy ra hỏa hoạn. Cho đến những năm 1960, một số sử gia bao gồm William L. Shirer và Alan Bullock vẫn cho rằng Đảng Quốc Xã là thế lực đứng sau vụ phóng hỏa. Tuy nhiên, hầu hết các sử gia ngày nay đều nhất trí rằng van der Lubbe tự ý châm lửa chứ không bị ai giật dây. Ngày 28 tháng 2, trước sự thúc giục của Hitler, Hindenburg thông qua Nghị định Hỏa hoạn Reichstag, bãi bỏ các quyền công dân cơ bản như tự do hội họp, tự do báo chí, an toàn thư tín và cho phép bắt giữ người mà không cần qua xét xử. Nghi định này được ban hành dựa trên Điều 48 của Hiến pháp Weimar, vốn cho phép tổng thống thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo vệ trật tự và an toàn công cộng, đồng thời thiết lập tình trạng khẩn cấp tại Đức (kéo dài đến tận khi chính quyền Đức Quốc Xã sụp đổ). Chính vì thế, nghị định trên được nhiều sử gia xem là "văn kiện hiến pháp của Đệ tam Đế chế".
Sau khi Nghị định Hỏa hoạn Reichstag được thông qua, Đảng Cộng sản Đức (KPD) bị đình chỉ hoạt động và khoảng 4.000 đảng viên của đảng này bị bắt giữ ngay lập tức. Ngay trong cuộc bầu cử sau, ngoài việc đẩy mạnh vận động chính trị, Đảng Quốc Xã còn tham gia vào các hoạt động bạo lực bán quân sự và tăng cường tuyên truyền chống cộng. Tại ngày bầu cử 6 tháng 3 năm 1933, tỷ lệ phiếu bầu của Đảng Quốc Xã tăng lên 43,9%, trở thành đảng nắm giữ nhiều ghế nhất trong Quốc hội. Tuy nhiên, do không thể đảm bảo đa số tuyệt đối (2/3) nên Đảng Quốc Xã buộc phải tiếp tục liên minh với Đảng Nhân dân Quốc gia Đức.
Ngày Potsdam và Luật Trao quyền
thumb|upright=1.2|left|Hitler và Paul von Hindenburg trong ngày Potsdam, 21 tháng 3 năm 1933 Ngày 21 tháng 3 năm 1933, quốc hội mới được thành lập với một buổi lễ khai mạc tại Garnisonkirche (Nhà thờ Đồn lính) ở Potsdam. Ngày hôm đó, còn gọi là "ngày Potsdam", được tổ chức nhằm phô diễn sự hòa hợp giữa phong trào quốc xã với giới tinh hoa và quân đội nước Phổ cũ. Hitler xuất hiện trong áo đuôi tôm, cung kính đón tiếp Hindenburg.
Nhằm thâu tóm quyền kiểm soát chính trị dù không sở hữu đa số tuyệt đối trong quốc hội, chính phủ Hitler kiến nghị quốc hội mới bầu tiến hành bỏ phiếu cho Gesetz zur Behebung der Not von Volk und Reich (Luật khắc phục tai họa của Nhân dân và Quốc gia), còn gọi ngắn gọn là Ermächtigungsgesetz (Luật Trao quyền). Luật này trao cho nội các Hitler quyền ban hành luật mà không cần quốc hội thông qua trong vòng bốn năm. Những đạo luật trên (với một số ngoại lệ nhất định) đều ảnh hưởng tới hiến pháp nên cần phải đạt số phiếu mới có thể thông qua. Để nắm chắc phần thắng, Đảng Quốc Xã lợi dụng các điều khoản của Nghị định Hỏa hoạn Reichstag để bắt giam toàn bộ 81 nghị sĩ của Đảng Cộng sản (bất chấp chiến dịch tàn bạo chống lại Đảng Cộng sản trước đó, Đức Quốc Xã vẫn cho phép họ tranh cử) và ngăn không cho một số đảng viên Dân chủ Xã hội tham dự.
Ngày 23 tháng 3 năm 1933, quốc hội nhóm họp tại Nhà hát Opera Kroll trong tình cảnh hỗn loạn. Hàng loạt lính SA canh phòng trong nhà, bên ngoài là đám đông biểu tình phản đối dự luật và đe dọa tấn công các đại biểu quốc hội đến muộn. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, lập trường của đảng lớn thứ ba quốc hội là Đảng Trung tâm mang ý nghĩa quyết định. Sau khi Hitler thuyết phục được nhà lãnh đạo đảng Trung tâm Ludwig Kaas rằng Hindenburg vẫn sẽ giữ quyền phủ quyết, Kaas tuyên bố rằng đảng của ông sẽ ủng hộ dự luật này. Cuộc bỏ phiếu kết thúc với 441 phiếu thuận và 84 phiếu chống của Đảng Dân chủ Xã hội. Luật Trao quyền được thông qua đồng nghĩa với việc Quốc hội Đức (nhánh lập pháp) sẽ chuyển giao vai trò lập pháp cho chính phủ (nhánh hành pháp) đồng thời tước bỏ quyền hành của tổng thống. Luật này cùng Nghị định Hỏa hoạn Reichstag đã giúp chính quyền của Hitler đường đường chính chính trở thành một thể chế độc tài hợp pháp.
Chế độ độc tài
Sau khi giành toàn quyền kiểm soát các nhánh lập pháp và hành pháp của chính phủ, Hitler cùng bè phái bắt đầu tiến hành các hoạt động trấn áp phe đối lập. Đảng Dân chủ Xã hội bị tịch thu mọi tài sản và cấm hoạt động. Trong lúc nhiều đại biểu công đoàn có mặt ở Berlin để tham gia các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Lao động, lực lượng xung kích (Sturmtruppe) của SA tấn công, đập phá văn phòng nghiệp đoàn trên phạm vi cả nước. Ngày 2 tháng 5 năm 1933, toàn bộ công đoàn bị ép phải giải tán, các nhà lãnh đạo bị bắt giam, một số bị đưa đến giam cầm trong trại tập trung. Mặt trận Lao động Đức (DAF) được thành lập để trở thành tổ chức bảo trợ đại diện cho mọi công nhân, nhà quản lý, và chủ sở hữu công ty, qua đó phản ánh khái niệm chủ nghĩa quốc gia xã hội theo tinh thần (cộng đồng nhân dân) của Hitler.
thumb|left|upright|Năm 1934, Hitler trở thành người đứng đầu nước Đức với danh nghĩa [[Führer|Führer und Reichskanzler (Lãnh tụ và Thủ tướng Quốc gia)]]
Cuối tháng 6, các đảng phái khác bị đe dọa giải tán, bao gồm cả đối tác liên minh trên danh nghĩa của Đảng Quốc Xã là Đảng Nhân dân Quốc gia Đức. Với sự trợ giúp từ SA, Hitler buộc thủ lĩnh đảng này là Hugenberg từ chức vào ngày 29 tháng 6. Ngày 14 tháng 7 năm 1933, Đảng Quốc Xã tự tuyên bố là chính đảng hợp pháp duy nhất tại Đức. Các yêu sách đòi quyền lực chính trị và quân sự của SA làm dấy lên nỗi lo cho giới lãnh đạo chính trị, quân sự và công nghiệp. Để đối phó nguy cơ này, Hitler lệnh thanh trừng toàn bộ ban lãnh đạo SA trong Đêm của những con dao dài, diễn ra từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1934. Các đối tượng rơi vào tầm ngắm bao gồm Ernst Röhm cùng các quan chức cấp cao trong hàng ngũ SA; các địch thủ chính trị khác của Hitler (như Gregor Strasser hay cựu thủ tướng Kurt von Schleicher) bị vây bắt, bỏ tù hoặc xử bắn. Trong khi cộng đồng quốc tế và một số người Đức bị sốc trước các vụ giết người thì nhiều người ở Đức lại tin rằng Hitler đang cố gắng khôi phục trật tự.
Hindenburg qua đời vào ngày 2 tháng 8 năm 1934. Ngay hôm trước, nội các đã ban hành "Luật Liên quan tới Chức vụ Nhà nước Cao nhất của Quốc gia" quy định rằng sau khi Hindenburg mất, văn phòng tổng thống sẽ bị bãi bỏ, và quyền hạn của nó được hợp nhất với quyền hạn thủ tướng. Thông qua đó, Hitler sẽ trở thành người đứng đầu nhà nước cũng như chính phủ dưới cương vị mới mang tên Führer und Reichskanzler (lãnh tụ và thủ tướng), dù chức vụ Reichskanzler về sau đã lặng lẽ bị loại bỏ và chỉ còn hư danh. Với hành động này, Hitler đã thủ tiêu biện pháp hợp pháp cuối cùng có thể lật đổ ông khỏi vị trí nguyên thủ quốc gia.
Trên cương vị nguyên thủ quốc gia, Hitler trở thành tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang. Ngay sau cái chết của Hindenburg, theo sự xúi giục của giới lãnh đạo Reichswehr, lời tuyên thệ trung thành truyền thống của quân nhân được đổi thành tuyên thệ với cá nhân Hitler, chứ không phải với nhà nước hay văn phòng tổng tư lệnh (sau này được đổi tên thành Bộ Chỉ huy Tối cao). Ngày 19 tháng 8, 88% phiếu cử tri phê chuẩn việc sáp nhập các chức vụ chỉ huy thành một trong một cuộc trưng cầu.
Đầu năm 1938, nhằm chỉnh đốn quân đội, Hitler sử dụng thủ đoạn hăm dọa để mở cuộc điều tra vụ Blomberg–Fritsch. Hitler trưng ra một hồ sơ cảnh sát cho thấy vợ mới của Bộ trưởng Chiến tranh, thống chế Werner von Blomberg, từng là gái mại dâm, từ đó ép được Blomberg từ chức. Tư lệnh lục quân, Đại tá-Tướng Werner von Fritsch bị cách chức sau khi Schutzstaffel (SS) trình ra những cáo buộc cho rằng ông có quan hệ đồng tính luyến ái. Hai người này không còn được trọng dụng bởi họ phản đối ý định muốn đặt Wehrmacht vào tư thế sẵn sàng cho chiến tranh ngay từ năm 1938 của Hitler. Hitler tiếp nhận chức danh Tổng tư lệnh của Blomberg, đích thân nắm quyền chỉ huy lực lượng vũ trang. Ngày 4 tháng 2 năm 1938, ông thay Bộ Chiến tranh bằng Oberkommando der Wehrmacht (Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực Đức: OKW) do Tướng Wilhelm Keitel đứng đầu. Cùng ngày, 16 tướng lĩnh bị tước quyền chỉ huy và 44 người khác bị thuyên chuyển công tác vì bị nghi ngờ là không đủ thành tâm với Đảng Quốc Xã. Đến đầu tháng 2 năm 1938, có thêm 12 tướng lĩnh khác bị cách chức.
Hitler cẩn thận khoác lên cho chế độ độc tài của mình một diện mạo hợp pháp. Nhiều sắc lệnh của ông đều dùng cái mác là dựa theo Nghị định Hỏa hoạn Reichstag, tức điều 48 của Hiến pháp Weimar. Quốc hội đã gia hạn Luật Trao quyền hai lần, mỗi lần có thời hạn bốn năm. Mặc dù các cuộc tuyển cử quốc hội vẫn được tổ chức (vào các năm 1933, 1936 và 1938), cử tri tham gia bỏ phiếu chỉ được phép bầu chọn những cái tên nằm trong danh sách mà thực chất chỉ gồm đảng viên Quốc Xã và những "khách mời" của Đảng Quốc Xã. Các cuộc bầu cử này đều được tổ chức trong điều kiện "chẳng có gì bí mật" và Đảng Quốc Xã ngang nhiên đe dọa trả đũa tàn bạo bất kỳ ai không bỏ phiếu hoặc dám bỏ phiếu chống.
Đức Quốc Xã
Kinh tế và văn hóa
thumb|Hitler bên cạnh các thành viên của [[Ủy ban Olympic Quốc tế trong buổi lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 1936 tổ chức tại Sân vận động Olympic Berlin]]
Tháng 8 năm 1934, Hitler bổ nhiệm chủ tịch Reichsbank (Ngân hàng Quốc gia) Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Kinh tế và Đặc mệnh toàn quyền về Kinh tế Chiến tranh trong năm kế tiếp, phụ trách việc chuẩn bị nền kinh tế cho chiến tranh. Hoạt động tái thiết và tái vũ trang được cấp vốn thông qua hối phiếu Mefo, in tiền và chiếm đoạt tài sản của những người bị bắt thuộc nhóm kẻ thù của nhà nước, trong đó có người Do Thái. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6 triệu (năm 1932) xuống còn 1 triệu (năm 1936). Hitler giám sát một trong những chiến dịch cải thiện cơ sở hạ tầng lớn nhất lịch sử Đức — xây dựng một loạt đập ngăn nước, hệ thống đường cao tốc Autobahn, đường sắt, cùng những công trình dân dụng khác. Từ giữa đến cuối thập niên 1930, mức thu nhập bình quân của người Đức đã giảm một ít so với thời Cộng hòa Weimar trong khi chi phí sinh hoạt tăng 25%. Số giờ lao động trung bình một tuần tăng lên trong giai đoạn chuyển dịch sang nền kinh tế chiến tranh. Năm 1939, người Đức trung bình làm việc từ 47 đến 50 giờ một tuần.
Bất chấp việc bị nhiều quốc gia và cộng đồng quốc tế đe dọa tẩy chay (trong đó có cộng đồng người Mỹ gốc Đức), Đức vẫn đăng cai Thế vận hội năm 1936 và lấy đây làm công cụ để quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Hitler cử hành lễ khai mạc và dự khán các môn thi đấu của cả Thế vận hội mùa đông ở Garmisch-Partenkirchen lẫn Thế vận hội mùa hè ở Berlin. Để tránh dư luận quốc tế lời ra tiếng vào, các hoạt động ngược đãi người Do Thái tạm lắng xuống trong thời gian diễn ra Thế vận hội. Sau tất cả, hai sự kiện thể thao lớn nhất thế giới này là một thắng lợi lớn về mặt ngoại giao của chính phủ Hitler vì thành công trong việc che đậy những mặt xấu và giới thiệu hình ảnh một nước Đức thân thiện, hiếu khách ra thế giới.
Tái vũ trang và những đồng minh mới
trái|nhỏ|Hitler trên [[Deutschland (tàu tuần dương Đức)|Tuần dương hạm Deutschland, còn được gọi "tàu chiến bọc thép" – một dạng tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh và trong một chừng mực nào đó tuân theo những giới hạn được đặt ra bởi Hòa ước Versailles.]] Trong cuộc gặp với các nhà lãnh đạo quân sự Đức vào ngày 3 tháng 2 năm 1933, Hitler làm một bài phát biểu về "cuộc chinh phục Không gian sống ở phía Đông cùng công cuộc Đức hóa tàn bạo của nó", xem đây là mục tiêu tối thượng của chính sách đối ngoại. Tháng 3 cùng năm, Thân vương Bernhard Wilhelm von Bülow, thư ký Auswärtiges Amt (Văn phòng Đối ngoại), ban hành một bản tuyên bố về các mục tiêu lớn trong chính sách đối ngoại của Đức: Anschluss đối với Áo, khôi phục lại đường biên giới quốc gia năm 1914, xóa bỏ các ràng buộc quân sự của Hòa ước Versailles, tái lập các thuộc địa cũ ở châu Phi và tạo một vùng ảnh hưởng của Đức ở Đông Âu. Hitler cho rằng những mục tiêu mà Bülow đưa ra quá khiêm tốn. Trong nhiều bài phát biểu thuộc giai đoạn này, ông nhấn mạnh mục tiêu hòa bình trong các chính sách của mình và sẵn sàng hành động trong khuôn khổ hiệp ước quốc tế. Tại cuộc họp nội các đầu tiên vào năm 1933, Hitler ưu tiên chi tiêu cho quân sự hơn là hỗ trợ thất nghiệp.
Tháng 10 năm 1933, Đức rút khỏi Hội Quốc Liên và Hội nghị Giải trừ Quân bị Thế giới. Tháng 1 năm 1935, hơn 90% dân số Saarland, khi đó nằm dưới quyền quản lý của Hội Quốc Liên, đã bỏ phiếu thống nhất với Đức. Tháng 3 năm đó, Hitler tuyên bố mở r