✨Trần Văn Trạch

Trần Văn Trạch

Trần Văn Trạch (tên thật: Trần Quang Trạch, 1924 - 1994) là một nhạc sĩ và ca sĩ nổi danh từ trước năm 1975 tại Việt Nam Cộng hòa. Với mái tóc dài cùng giọng ca trầm ấm cùng phong thái biểu diễn mới lạ, vui nhộn, độc đáo, ông được khán giả, báo chí trước 1975 phong tặng danh hiệu "Quái kiệt".

Tiểu sử

Thân thế

Ông sinh tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, ngày nay thuộc tỉnh Tiền Giang, trong gia đình có truyền thống cổ nhạc và sân khấu tuồng. Ông là con trai thứ trong ba người con của ông Trần Quang Chiêu. Ông có người anh là Trần Văn Khê và em gái út là Trần Ngọc Sương.

Ông cố tên Trần Quang Thọ, vốn là một nghệ nhân nổi tiếng trong ban nhạc cung đình Huế. Khoảng năm 1860, ông Thọ xin từ nhiệm và di cư vào miền Nam Việt Nam. Ông nội là nhạc sĩ Trần Quang Diệm (Năm Diệm, 1853-1925). Cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều, 1897-1931) nổi tiếng trong giới cổ nhạc qua tiếng đàn kìm lên dây theo kiểu dây Tố Lan do ông sáng chế ra. Mẹ là Nguyễn Thị Dành (1899 - 1930), là đảng viên cộng sản.

Ông Trạch có người cô thứ ba tên là Trần Ngọc Viện (Ba Viện, 1884-1944). Bà biết hát nhiều điệu hát, biết sử dụng nhiều nhạc cụ dân tộc, nhưng điêu luyện nhất là đàn thập lục (đàn tranh) và đàn tỳ bà. Bà chính là người đã thành lập gánh hát Đồng Nữ Ban vào khoảng năm 1927, với một điểm đặc biệt là tất cả các diễn viên đều là nữ, một hiện tượng duy nhứt trong lịch sử hát cải lương miền Nam. Và bà cũng là người nuôi dạy ba người con của ông Chiều, khi vợ ông Chiều là bà Nguyễn Thị Dành mất sớm. Sau, cả ba người cháu này đều thành danh, đó là nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Trần Văn Khê, "Quái kiệt" Trần Văn Trạch và ca sĩ Trần Ngọc Sương.

Phía bên ngoại, ông Trạch có cậu thứ năm tên là Nguyễn Tri Khương (1890-1962), tục gọi Năm Khương. Ông là cháu nội của danh tướng Nguyễn Tri Phương) và là một nhạc sĩ chuyên về sáo, lại thông hiểu về lý thuyết nhạc cổ. Cho nên khi bà Ba Viện lập gánh hát Đồng Nữ Ban, ông Khương trở thành soạn giả của gánh. Để phong phú thêm làn điệu, ông sáng tác ra những bài hát như: "Thất trĩ bi hùng", "Yến tước tranh ngôn", "Phong xuy trịch liễu", "Bắc Cung Ai",...

Con của người cậu thứ tư (Nguyễn Tri Lạc) là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca, mất vào năm 1944 trong lúc kháng chiến chống Pháp, là tác giả bài "Dạ khúc" được nhiều người yêu âm nhạc đương thời biết đến.

Thiếu thời

Thuở nhỏ, Trần Văn Trạch theo học chữ ở Collège de Mỹ Tho (Trường Trung học Mỹ Tho) cho tới năm 18 tuổi (1942) thì rời ghế nhà trường.

Ngay từ lúc nhỏ ông đã có năng khiếu về âm nhạc. Do vậy, ông sử dụng khá thành thạo đàn kìm và đàn tỳ bà. Tuy biết nhiều về cổ nhạc và có giọng hát ấm, nhưng ông lại thích tân nhạc hơn. Vì vậy, ông học đàn mandoline với anh là Trần Văn Khê và học đàn violon với người anh cô cậu là Nguyễn Mỹ Ca, biết chơi thành thạo những bài nhạc Pháp thịnh hành thuở đó.

Ngoài niềm đam mê về âm nhạc, ông Trạch cũng thích việc kinh doanh, nên có thời gian ông lập ra lò làm chén ở Vĩnh Kim. Tuy nhiên, sau một vài năm làm ăn không khá, ông bỏ nghề lên Sài Gòn kiếm sống.

Lên Sài Gòn

Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Pháp trở lại Đông Dương; những phòng trà được phép mở cửa trở lại. Bằng tài năng của mình, buổi đầu Trần Văn Trạch xin vào làm hoạt náo và hát tại hộp đêm dancing Théophile ở vùng Đa Kao, Quận 1. Sau khi có được một số vốn, ông xin mở một phòng trà nhỏ ở đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Trong thời gian này ông sống với người vợ Pháp và có một đứa con. Vì thế, ông bị những người theo Việt Minh kết tội là Việt gian. May mắn được anh ruột Trần Văn Khê kịp nhờ người bảo lãnh, nên ông Trạch mới được tha nhưng phải gia nhập vào ban nhạc quân đội của Việt Minh, rồi cùng với anh đi lưu diễn khắp miền Tây Nam Bộ. Khoảng năm 1946-1947, Trần Văn Trạch không theo ban nhạc nữa mà về Sài Gòn, cùng em gái là Trần Ngọc Sương mở quán giải khát tại khu Bàn Cờ (nay thuộc Quận 3). Nhằm câu khách, đôi khi ông Trạch hát những bài nhạc Pháp cho lính Pháp nghe, nên ông được bạn bè đặt cho anh một cái tên rất "Tây" là Tracco.

Trong thời gian đi theo ban nhạc quân đội, Trần Văn Trạch có quen nhạc sĩ Lê Thương. Phát hiện được khả năng hài tiềm ẩn trong con người ông Trạch, nên lần đầu tiên Lê Thương viết thử nghiệm một bài ca hài cho ông trình diễn. Đó là bài "Hòa bình 48" (1948) hát nhái tiếng đại bác, tiếng máy bay ném bom,...

[[Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Lê Thương ở Sài Gòn năm 1949]] Được người nghe hoan nghênh, Lê Thương viết tiếp bài "Liên Hợp Quốc" hát bằng tiếng Pháp, Anh, Nga, Hoa. Bài "Làng báo Sài Gòn" cũng do ông hát mấy lần thì bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ ra lệnh cấm, vì trong bài có những câu như: "Báo Sài Thành từ suốt ba năm nay - Sống một cuộc đời bất bình, mập mờ cũng hay - Nếu mai sau mà anh muốn nói láo - Cứ nghe tôi mà anh cứ viết báo - Công chúng đang buồn, nghe nói một hồi - Như thác nhớ nguồn, nên cũng đành thôi...Nào xin kính chào này - Mừng tân thủ tướng mới- Chừng coi gió chiều nào - Là xoay đổi hướng..." phê bình các nhà báo ủng hộ thực dân Pháp. Vì vụ này, Lê Thương, Trần Văn Trạch,... đã bị sở cẩm câu lưu tại bót Catinat mấy ngày.

Đến năm 1949, nhận thấy tân nhạc bắt đầu thịnh hành, Trần Văn Trạch nảy ra ý nghĩ mở đại nhạc hội, là một chương trình văn nghệ bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch, xiếc, ảo thuật,... Với cách làm này, Trần Văn Trạch chinh phục được nhiều khán giả trên khắp mọi miền. Kể từ đó danh từ "đại nhạc hội" bỗng trở nên phổ biến.

Năm 1951, bắt đầu từ rạp Nam Việt, ông Trạch đưa ca nhạc vào các rạp chiếu bóng để diễn trước giờ chiếu phim chính. Cách làm này cũng được nhiều người xem hoan nghênh và khai sinh từ ngữ "chương trình văn nghệ phụ diễn" từ đó. Cũng năm này, vì nhu cầu trình diễn, ông Trạch đã tự sáng tác ra những bản nhạc hài hước để tự mình trình diễn lấy. Bản nhạc "Anh phu xích lô" là sáng tác đầu tiên của ông: :''Có ai mà muốn đi tới Chợ Lớn :''Có ai mà muốn đi tới Chợ Mới :''Có ai mà muốn đi chóng cho mau tới :Ê tôi xin mời lại đây.

:''Chiếc xe này có bảo kiết thật chắc :''Bánh xe thì tốt thùng có bọc sắt :''Nếu khi mà có đụng phải xe jeep :Quý ngài chẳng hề hấn gì...

Kể từ đó cho tới ngày ký Hiệp định Genève (1954) ông viết tiếp "Cái têlêphôn", "Cái đồng hồ tay", "Cây bút máy", "Anh chàng thất nghiệp", "Sở vòi rồng", "Đừng có lo", "Tôi đóng xinê", "Chiếc ôtô cũ", "Chiến xa Việt Nam",... Bài nhạc nào của ông cũng làm người nghe bật cười thích thú. Từ đó, ông có biệt danh là "Quái kiệt" Trần Văn Trạch.

Tuy vậy, ông không chỉ sáng tác nhạc hài hước mà đôi khi trong nhạc cũng pha lẫn chút triết lý, như bài "Khi người ta yêu nhau": :''Khi người ta yêu nhau :''Yêu trong lúc bảy mươi tuổi đầu :''Thì không phải vì tiền đâu :Nhưng mà chẳng còn bao lâu...

Hoặc pha lẫn chút bi như bản "Chuyến xe lửa mùng 5" (1952), kể lại chuyện đi thăm mẹ của một chàng trai: lúc đầu là những đoạn nhạc hài hước với những tiếng động của nhà ga, của xe lửa,... nhưng đoạn cuối là một khúc bi ca, khi chàng trai ấy về đến nhà mới biết mẹ mình đã qua đời.

Cũng trong năm này, ông đã sáng tác và hát bài "Xổ số kiến thiết quốc gia", Nhờ bài hát này, tên tuổi ông càng được nhiều người biết đến. Trích: :''Kiến thiết quốc gia :''Giúp đồng bào ta :''Xây đắp muôn người :''Được nên cửa nhà

:''Tô điểm giang san :''Qua bao lầm than :''Ta thề kiến thiết :''Trong giấc mộng vàng

:''Triệu phú đến nơi :''Chỉ mười đồng thôi :''Mua lấy xe nhà :''Giàu sang mấy hồi...

Ngoài nghiệp ca hát và sáng tác, Trần Văn Trạch còn đảm trách ban nhạc Sầm Giang trên đài phát thanh Pháp Á từ năm 1950 tới năm 1954. Ban Sầm Giang quy tụ một số nhạc sĩ có tên tuổi như cố nhạc sĩ Võ Đức Thu, Khánh Băng, Nghiêm Phú Phi, các ca sĩ có tiếng thời 1950, như: Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tôn Thất Niệm, Linh Sơn, Mạnh Phát, Minh Diệu, Túy Hoa, Tâm Vấn,... Đến năm 1953, có thêm những bộ mặt mới như nữ kịch sĩ Bích Thuận, Duy Trác, Tùng Lâm, ban hợp ca Thăng Long và bé Bạch Yến.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, Trần Văn Trạch sáng tác rất ít và chỉ có một bài ca hài hước được ra đời, ví dụ bài "Ba chàng đi hỏi vợ".

Trần Văn Trạch cũng đã cộng tác với nền điện ảnh Việt Nam từ giai đoạn phôi thai. Năm 1955, ông cộng tác với hãng phim Mỹ Phương bên Pháp, sản xuất được hai cuốn phim là Lòng nhân đạo (1955) và Giọt máu rơi (1956). Cả hai phim này ông đều đóng chung với nghệ sĩ Kim Cương. Sau khi rời hãng phim trên, Trần Văn Trạch cộng tác với người Hoa ở Chợ Lớn để lập hãng phim Việt Thanh và tự làm đạo diễn cho hai cuốn phim về truyện cổ tích Việt Nam, đó là phim Thoại Khanh Châu Tuấn (1956, với Kim Cương và Vân Hùng) và Trương Chi Mỵ Nương (1956, đóng chung với Trang Thiên Kim - La Thoại Tân).

Năm 1957, vì lâm bệnh nặng suốt cả năm nên ông phải từ giã nghề điện ảnh.

Năm 1960, Trần Văn Trạch sang Paris (Pháp) và thường xuyên hát tại nhà hàng La Table du Mandarin, Quận 1, Paris. Thời gian ở Pháp ông thâu âm thâu hình bản "Chiều mưa biên giới" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cho hai đài là Europe No.1 và Đài Truyền hình Pháp. Ông đã thâu âm bài "Chiều mưa biên giới" theo kiểu sound track (phần nhạc do ban nhạc của Pháp thu sẵn trên băng nhựa). Lưu diễn khoảng sáu tháng, năm 1961, ông trở về Sài Gòn với một tiết mục mới là trò múa rối học được ở Pháp. Ông tiếp tục là nam ca sĩ đầu tiên thâu bản "Mấy dặm sơn khê" cũng của Nguyễn Văn Đông.

Năm 1965 đến đầu năm 1975, Trần Văn Trạch là "ông bầu", chuyên tổ chức những chương trình nhạc trẻ phục vụ trong những hộp đêm dành cho lính Mỹ. Trong khoảng thời gian trên, ông có sáng tác một vài bản nhạc nhưng không được thành công, như bài "Highway 19" đặt theo điệu Long Hổ Hội, nhạc cổ nhưng lời bằng tiếng Anh và theo điệu swing.

Kể từ sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 và mấy năm sau đó, Trần Văn Trạch tạm sống một cuộc đời bình thường, thỉnh thoảng cũng đi lưu diễn cùng với một số nghệ sĩ khác.

Cuối đời ở Pháp

Tháng 12 năm 1977, Trần Văn Trạch rời Sài Gòn sang định cư ở Paris, Pháp. Từ đó trở đi cho tới ngày từ trần, ông gần như tạm dừng công việc nghệ thuật, xoay làm nghề khác để mưu sinh.

Ở hải ngoại, ông chỉ sáng tác được một vài bài hát. Về sinh hoạt văn nghệ, ông cũng chỉ có bốn cuốn băng là Hài hước Trần Văn Trạch (Thúy Nga Paris, 1982) Con đường hạnh phúc (Thanh Lan, 1983), và Allô Paris (Giáng Ngọc, Paris 1986). Về phía phim video, ông cũng có làm một cuốn kỷ niệm Hài hước Trần Văn Trạch (quận Cam, California, Hoa Kỳ, 1983) và trong cuốn Thi ca nhạc kịch Việt Nam (Hà Phong thực hiện, Paris, 1984). Ngoài ra ông cũng có đi diễn cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ năm 1983 và 1986, ở Úc châu năm 1984,... Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, Trần Văn Trạch thường sang Hoa Kỳ làm nghề quảng cáo trên đài Truyền hình Việt Nam ở quận Cam.

Tháng 2 năm 1994, ông trở về Paris và nằm chữa bệnh ung thư gan tại bệnh viên Tenon. Trần Văn Trạch mất ngày 12 tháng 4 năm 1994, hưởng thọ 70 tuổi. Ông được an táng tại nghĩa trang Cimetière Intercommunal ở Valenton, ngoại ô Paris.

Một đoạn tự thuật

Bài hát

Anh phu xe Cái đồng hồ tay (Đồng hồ) Cây bút máy Đêm khuya trên đường Catinat Tai nạn téléphone Chuyến xe lửa mồng năm Ba chàng đi hỏi vợ Chồng đĩa hát cũ Anh chàng thất nghiệp Xe ô tô cũ Ngày thể thao quốc tế Bản nhạc tò ti Đi xem hội chợ Sài Gòn Vui buồn sân khấu Cột đèn cũng muốn đi Tôi là nhạc sĩ Chiến xa Việt Nam Đừng có lo Xe mô tô cũ Thu ca mộng khúc *Tôi đóng ciné

Nhận xét

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Văn Trạch** (tên thật: **Trần Quang Trạch**, 1924 - 1994) là một nhạc sĩ và ca sĩ nổi danh từ trước năm 1975 tại Việt Nam Cộng hòa. Với mái tóc dài cùng giọng
**Trần Văn Khê** (24 tháng 7 năm 1921 – 24 tháng 6 năm 2015), còn có nghệ danh **Hải Minh**, là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng ở Việt
**Trận Trọc Trạch** (chữ Hán: 濁澤之戰, Hán Việt: _Trọc Trạch chi chiến_), là cuộc chiến tranh giành ngôi vua ở nước Ngụy thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, có sự tham gia của
**Trần Vân ** (, pronounced ; 13 tháng 6 năm 1905 — 10 tháng 4 năm 1995), từng có tên Liêu Trình Vân (廖程雲) khi hoạt động bí mật ở Thượng Hải. Ông người Thanh
**Trần Văn Trà** (15 tháng 9 năm 1919 – 20 tháng 4 năm 1996) là một nhà quân sự và chính trị gia người Việt Nam. Ông là Thượng tướng của Quân đội nhân dân
thumb|phải|Tượng Hội đồng Trạch và vợ của ông. **Trần Trinh Trạch** (chữ Hán: 陳貞澤; 25 tháng 08, 1872-28 tháng 10, 1942) hay thường gọi là **Hội đồng Trạch**, là một thương gia và chính trị
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Đoàn Văn nghệ Việt Nam** là lực lượng xung kích thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. ## Lịch sử ###
**Trần Văn Bảo** (chữ Hán: 陳文寶, 1524 - 1611) là một danh sĩ Việt Nam. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550), đời Mạc Tuyên Tông, làm quan
**Trần Văn Bá** (14 tháng 5 năm 1945 — 8 tháng 1 năm 1985) là chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris giai đoạn từ năm 1973 đến 1980. Sau khi
**Phêrô Trần Văn Phương** (1965–1988) là một sĩ quan Hải quân Nhân dân Việt Nam, cấp bậc Trung úy. Trong biến cố xung đột vũ trang Trường Sa năm 1988, ông cùng các chiến sĩ
**Trần Văn Sớ** (1914-1994) nhà hoạt động cách mạng, nhà ngoại giao Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đã giữ các chức vụ Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban nhân dân
**Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản** (; thường gọi tắt là **Cách mạng Văn hóa** 文化革命, hay **Văn cách** 文革, _wéngé_) là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa
**Giang Trạch Dân**, Nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) từ năm 1989 đến năm 2002 và Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1993 đến năm 2003
Cụ Đặng Huấn sinh năm Kỷ Mão (1579) tại Lương Xá, huyện Chương Đức (nay là thôn Lương Xá, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội). là hậu duệ đời thứ 6 Cụ tổ
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 554?- 570), tên húy **Trần Bá Tông** (陳伯宗), tên tự **Phụng Nghiệp** (奉業), tiểu tự **Dược Vương** (藥王), là một hoàng đế của triều đại Trần trong lịch sử
**Lê Văn Tri **(13 tháng 9 năm 1920– 29 tháng 5 năm 2006 ) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Bí
**Trần Ngọc Diện** (1884 - 1944), tục gọi là cô **Ba Diện**, là một giáo viên, một nghệ sĩ nhiều tài năng. Bà là người thành lập _Đồng Nữ Ban_, gánh cải lương duy nhất
**Trận Vườn Điều - Bàu Nâu** là một trận đánh trong Chiến tranh Việt Nam diễn ra tại Bàu Nâu, thuộc địa bàn xã Phước Thọ (nay là xã Long Thọ), huyện Nhơn Trạch, tỉnh
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
**Trần Vũ Đế** (chữ Hán: 陳武帝), tên thật là **Trần Bá Tiên** (陳霸先; 503 - 559) là vị vua đầu tiên, người sáng lập ra nhà Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Trần Tĩnh** (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1989) là diễn viên Trung Quốc và người mẫu trực thuộc One Cool Jasco Entertaiment có trụ sở tại Hồng Kông . ## Sự nghiệp Năm 2007
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trần Tử Oai** (1921 - 2001) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông là một trong số ít sĩ quan được phong
**Trần Đạo Tái** (Chữ Nho: 陳道載; ? – ?), là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Đạo Tái là con trai thứ
**Nguyễn Văn Đông** (15 tháng 3 năm 1932 – 26 tháng 2 năm 2018) nguyên là một sĩ quan bộ binh cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang
**Phạm Văn Nhận**, sinh năm 1921 tại làng Vẽ, Hà Nội, Bắc Kỳ) là một nhà điện ảnh người Pháp. ## Tiểu sử Phạm Văn Nhận có nguyên quán tại Hà Đông nhưng sinh năm
**Vân Hùng** (1937–2000) là nghệ danh một nam kịch sĩ và tài tử điện ảnh Việt Nam. ## Lịch sử Nghệ sĩ Vân Hùng sinh tháng 08 năm 1937 tại Sài Gòn với nguyên danh
**Mao Trạch Đông** (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: _Máo Zédōng_; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính
**Bố Trạch** là một huyện cũ thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. ## Địa lý Sông Son trước [[động Phong Nha]] Huyện Bố Trạch nằm ở trung tâm tỉnh Quảng Bình, có vị trí địa
**Đền Trần** (陳廟 - Trần Miếu) là một quần thể đền thờ tại đường Trần Thừa, phường Nam Định, tỉnh Ninh Bình. Từ phường Hoa Lư, trung tâm tỉnh Ninh Bình tới đền Trần 33 km.
**Trần Thắng** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1966) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc Việt
**Trần Trinh Huy** (1900 – 1974) hay còn gọi là **Ba Huy**, là một công tử ăn chơi nổi tiếng ở Sài Gòn và Nam Kỳ những năm 1930, 1940. Mức độ tiêu xài hoang
phải|Các đền thờ trong không gian [[Hoa Lư tứ trấn]] **Hoa Lư tứ trấn** là bốn vị thần trấn giữ các hướng đông, tây, nam, bắc của cố đô Hoa Lư trong tín ngưỡng dân
**Trạch Nhượng** (, ? - 14 tháng 12 năm 617) là một thủ lĩnh khởi nông dân vào thời Tùy mạt. Tin vào sấm ngôn cho thấy Lý Mật sẽ trở thành hoàng đế, ông
**Trịnh Trân** (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là **Tử Doãn**, vãn hiệu **Sài Ông**, biệt hiệu **Tử Ngọ sơn hài**, **Ngũ Xích đạo nhân**, **Thư Đồng đình trưởng**, người huyện Tuân Nghĩa,
Người Bru - Vân Kiều gùi hàng trên [[đường 9]] **Người Bru - Vân Kiều** (còn gọi là **người Bru**, **người Vân Kiều**, **người Ma Coong**, **người Trì** hay **người Khùa**) là dân tộc cư
**Nguyễn Lộ Trạch** (1853? - 1895?), tên tự là **Hà Nhân**, hiệu là **Kỳ Am**, biệt hiệu _Quỳ Ưu_, _Hồ Thiên Cư Sĩ_, _Bàn Cơ Điếu Đồ_, là nhà văn và là nhà cách tân
**Thuận Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 順天高皇后, 4 tháng 1 năm 1769 - 6 tháng 11 năm 1846) tên thật là **Trần Thị Đang** (陳氏璫), là một phi tần của Nguyễn Thế Tổ Gia
**Vĩnh Trạch** là một phường thuộc tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Phường Vĩnh Trạch có vị trí địa lý: *Phía đông giáp thành phố Cần Thơ *Phía tây giáp phường Bạc Liêu
**Lâm Văn Thê** (1922-1990), Thượng tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam. ## Tiểu
**Trần Vĩnh Quý** (; 14 tháng 2 năm 1915 – 26 tháng 3 năm 1986) là nông dân và chính khách Trung Quốc. Dù là một nông dân mù chữ nhưng ông từng là Ủy
**Thị trấn** là một đơn vị hành chính cấp xã từng tồn tại tại Việt Nam. Loại đơn vị hành chính này đã bị bãi bỏ vào ngày 17 tháng 6 năm 2025. Trước khi
**Trận Vĩnh Yên** là một trận đánh quan trọng của Chiến dịch Trần Hưng Đạo diễn ra từ 13 tháng 1 đến 17 tháng 1 năm 1951. Đây là trận đánh có quy mô cấp
**Vận Thành** () là một huyện của địa cấp thị Hà Trạch, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Trên địa bàn huyện có tuyến quốc lộ 220 chạy qua. ### Trấn
*
**Hội Trạch** (tiếng Trung: 会泽县), Hán Việt: _Hội Trạch huyện_ là một huyện thuộc địa cấp thị Khúc Tĩnh, tỉnh Vân Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 6.077 km², dân
nhỏ|phải|Các tuyển trạch viên bóng chày đang sử dụng [[súng bắn tốc độ tại một trận đấu diễn ra ở sân vận động Turner Field, Hoa Kỳ năm 2008]] Trong các môn thể thao chuyên
**Trần Tích Liên** (; 4 tháng 1 năm 1915 – 10 tháng 6 năm 1999) là sĩ quan quân đội và chính khách, thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Là nhân vật