✨Trận Đà Nẵng (1858–1859)

Trận Đà Nẵng (1858–1859)

Trận Đà Nẵng (1858 – 1859) hay Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất là trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp – Việt (1858 – 1884) trong lịch sử Việt Nam. Đây là trận đánh kéo dài nhiều ngày, khởi sự từ ngày 31 tháng 8 năm 1858 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1859, để chuyển sang một giai đoạn khác.

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, thì Liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã bị cầm chân và bị thiệt hại, cho nên đây chính là một khởi đầu thắng lợi lớn, nhưng duy nhất trong hơn một phần tư thế kỷ (1858–1884) chống ngoại xâm của quân và dân Việt Nam.

Hoàn cảnh

Giữa thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nước tư bản phương Tây mở những cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa. Các quốc gia phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đã trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh đó.

Lợi dụng các mối quan hệ đã có từ thời chúa Nguyễn Ánh và sự suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha đã viện cớ Nhà Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa và bắt bớ, giết hại nhiều giáo sĩ, giáo dân để tiến hành cuộc chiếm cứ nước Việt.

Sau hai trận thăm dò và thử sức lực lượng phòng thủ của Nhà Nguyễn ở Đà Nẵng (Quảng Nam) vào ngày 15 tháng 4 năm 1847 và ngày 26 tháng 9 năm 1857, một ủy ban có tên là Commission de la Cochinchine do Nam tước Brenien đứng đầu đã đệ trình và đã được Hoàng đế Napoléon III chấp thuận, chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam.

Bởi Đà Nẵng là một hải cảng sâu và rộng, thuận tiện cho tàu chiến vào ra, lại nằm trên trục đường Bắc – Nam, có thể sang Lào, Căm Bốt và chỉ cách kinh đô Huế khoảng 100 km, rất thuận lợi cho việc "đánh nhanh thắng nhanh" của liên quân Pháp – Tây Ban Nha (gọi tắt là liên quân). Ngoài ra, Đà Nẵng còn có cánh đồng Nam – Ngãi để nuôi quân, còn có nhiều giáo sĩ và giáo dân thân Pháp.

Cho nên đánh chiếm được Đà Nẵng, vượt đèo Hải Vân, rồi tấn công ra Huế chính là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, ít hao tốn tiền của và nhân lực nhất để thực hiện được ý đồ của Pháp và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, phải chờ đến sau khi Hiệp ước Thiên Tân (28 tháng 6 năm 1858) được ký kết, quân đội Pháp ở Viễn Đông mới có thể rảnh tay chuyển sang mặt trận khác.

Lực lượng đôi bên

Lực lượng liên quân có khoảng 3.000 quân (450 binh sĩ Tây Ban Nha), được bố trí trên 14 tàu chiến (lúc đầu, theo Đại Nam thực lục là 12 chiếc tàu), trong số đó có soái hạm Némésis và những tàu lớn được trang bị tới 50 khẩu đại bác, có sức công phá lớn và sát thương cao. Lực lượng quân Nhà Nguyễn ở Đà Nẵng có khoảng 2.070 lính chính quy (theo Đại Nam thực lục) dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng, khi trận chiến nổ ra được chi viện thêm, do Hữu quân Đô thống Lê Đình Lý chỉ huy từ Huế vào, tổng cộng có hơn 7.000 người phối hợp với đạo quân Tây Ban Nha do Đại tá Lanzarotte chỉ huy, đưa tàu chiến xuống phía Nam. Chiều tối ngày 31 tháng 8 năm 1858, toàn bộ lực lượng trên đã có mặt trước cửa biển Đà Nẵng. Sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, De Genouilly gửi tối hậu thư buộc quan Trấn thủ Đà Nẵng trong hai giờ phải giao nộp tỉnh thành. Nhưng không đợi trả lời, đại bác của liên quân đã tập trung hỏa lực bắn tới tấp hàng trăm quả vào cửa sông Đà Nẵng và các đồn ở bán đảo Sơn Trà.nhỏ|Bản đồ trên đã được Việt hóa.|trái|367x367pxTheo kế hoạch, liên quân gồm hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất gồm ba tàu chiến, tập trung hỏa lực bắn vào các đồn ở Sơn Trà. Bộ phận thứ hai, dưới làn đạn yểm trợ của bộ phận thứ nhất, sẽ nhanh chóng tiến gần vào cửa sông Đà Nẵng để bắn vào đồn Đông và đồn Tây đang án ngữ. Ngay hôm đó (1 tháng 9), đồn Đông bị vỡ. Sáng hôm sau (2 tháng 9) liên quân tiếp tục nã đại bác chiếm lấy đồn Tây, rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải chỉ nội một ngày. Trước vũ khí mạnh hơn, quân Việt vừa đánh vừa lui dần ra sau, lập phòng tuyến Liêu Trì trước huyện Hòa Vang để ngăn liên quân vào nội địa.

Nhận được tin liên quân đánh Đà Nẵng, vua Tự Đức liền sai Chưởng vệ Đào Trí vào Đà Nẵng để hiệp cùng Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng chống ngăn, nhưng khi Đào Trí đến nơi thì hai đồn trên đã mất. Nhà vua lại sai Hữu quân đô thống Lê Đình Lý và Tham tri bộ Hộ Phạm Khắc Thận đem 2.000 quân vào ứng cứu, cử Tham tri nội các Nguyễn Duy giữ chức chỉ huy quân thứ ở Quảng Nam, và ra lệnh cách chức Trần Hoằng vì lỗi đã án binh bất động, đưa Đào Trí lên thay...

Đánh chiếm được Sơn Trà, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tiến vào nội địa, đánh tan phòng tuyến bằng ụ đất, rào tre của quân Việt ở xã Mỹ Thị, rồi tràn sang chiếm xã Cẩm Lệ. Tướng Lê Đình Lý bị trọng thương rồi mất trong trận chiến này. Xét công tội, tướng Hồ Đức Tư, trấn giữ đồn Hóa Khuê, bị vua Tự Đức sai bắt giam và bị cách chức vì lỗi không tiếp ứng và án binh bất động.

Hữu quân Lê Đình Lý mất, nhà vua cử Thống chế Chu Phúc Minh làm Tổng đốc quân vụ thay Lê Đình Lý. Rồi điều tướng Nguyễn Tri Phương, khi ấy đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ, về làm Tổng thống quân vụ Quảng Nam; cử thêm Phạm Thế Hiển làm Tham tán để cùng gấp rút chấn chỉnh quân chánh và thống nhất phương thức chống ngoại xâm.

Ngày 10 tháng 10 năm 1859, Nguyễn Tri Phương gửi báo cáo về Huế, trong đó ông mô tả về tình hình lực lượng quân Pháp và quân triều đình:

- Quân Pháp có vũ khí tinh xảo, súng đạn đầy đủ khi đánh.

_- Quân Triều đình ở Quảng Nam có hơn 7.000 người thì bỏ trốn, bị sa thải, bệnh hoạn hoặc dùng để sai phái đã hết quá nửa, chỉ còn 3.200 người tại ngũ.phải|Súng thần công tại [[Thành Điện Hải|Thành cổ Điện Hải]] Trước tình thế đó, Nguyễn Tri Phương không chủ trương đánh chính diện để tránh sức mạnh hỏa lực của đối phương mà cho phục kích, thực hiện "vườn không, nhà trống"_ (để cô lập và triệt đường tiếp tế) và cho đắp lũy dài từ Hải Châu vào tới Phúc Ninh, Thanh Giản để bao vây liên quân ngoài mé biển.

Suốt 5 tháng giao tranh, cái đói, cái bệnh, cái nóng bức... đã khiến liên quân mệt mỏi và hao mòn. Mặc dù được giáo sĩ Pellerin khuyên nên đem quân ra chiếm Bắc Kỳ, vì ở đó có giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo, và những người còn tôn phù Nhà Lê nổi lên góp sức, nhưng sau khi cân nhắc, tướng De Genouilly không tán thành.

Ngày 2 tháng 2 năm 1859, chỉ để lại một phần ba số quân (khoảng 1.000 người) và 6 tàu chiến, bàn giao cho Đại tá Faucon nắm giữ, còn bao nhiêu De Genouilly cho rút hết vào Nam, mở mặt trận mới ở Gia Định (Xem: Trận thành Gia Định, 1859).

Mô tả lại tình cảnh khó nhọc của liên quân lúc bấy giờ, giáo sư Trần Văn Giàu viết: Một đoạn thành tại [[Thành Điện Hải|Thành cổ Điện Hải|trái]] :Sau năm tháng giao tranh, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chỉ chiếm được một ngọn núi không người và vài làng ven biển không người. Họ không dám tiến sâu... Họ mong chờ một cuộc nổi loạn của nhân dân Nam – Ngãi theo lời hứa hẹn của các giáo sĩ Pháp, mà không thấy. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan ấy, thì liên quân bị đau ốm và chết chóc khá nhiều, căn bản không phải vì súng đạn, mà chính vì phong thổ khí hậu. Thức ăn lại rất khó tìm, thuốc men không đủ dùng, thỉnh thoảng bị quân Việt đến tập kích, bắn tỉa...

Báo cáo của Pháp

Phó Đô đốc De Genouilly đã viết thư về Pháp rằng: :''Chính phủ bị đánh lừa về bản chất của cuộc đi đánh lấy nước Nam Kỳ (Việt Nam); người ta trình bày rằng việc viễn chinh này chỉ là một việc dễ dàng thôi, nho nhỏ thôi; thực ra, nó không dễ, cũng không nhỏ... Người ta (…) cho rằng dân chúng sẽ nổi lên hưởng ứng, thật ra... trái hẳn lại với sự dự đoán đó... Người ta báo cáo rằng quân đội Việt không có gì, sự thật thì quân chính quy rất đông, còn dân quân... thì không đau ốm và không tàn tật... Trên bộ thì không hành quân lớn được, dù là chỉ hành quân ngăn ngắn mà thôi; binh lính không chịu đựng nổi...

Trích báo cáo của De Genouilly đề ngày 4 tháng 1 năm 1859: :Chúng ta đang xuống dốc đến kiệt quệ ở Đà Nẵng. Mọi phương tiện cải thiện tình hình bộ binh và hải quân đều hết sạch và vô hiệu.

Hơn 10 ngày sau (15 tháng 1), viên tướng này gửi tiếp một báo cáo nữa, để nói rõ số lính chết vì bị bệnh kiết lỵ lên đến mức đáng sợ. Trong số 800 lính bộ binh, chỉ còn nhiều nhất là 500 người có thể cầm khí giới, nhưng không đủ sức để mở một cuộc hành quân...

Nhận xét

Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4): :Những diễn biến cho thấy đối phương không thể phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà đã bị chặn ngay ở cửa biển Đà Nẵng. Đây là kết quả của… khối đoàn kết toàn dân. Ngoài quân chủ lực, còn có sự tham gia của biền binh và dân binh sở tại... Có thể coi đây là thắng lợi lớn và duy nhất ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống xâm lược của quân và dân Việt, từ 1858 đến 1884. Sách Lịch sử Việt Nam (1858 – cuối thế kỷ XIX): :Kế hoạch "đánh mau, thắng mau" của đối phương tuy thất bại ở Đà Nẵng, nhưng, họ lại chọn được một vị trí khác (tức Gia Định) để thực hiện kế hoạch đó. Trong khi đại quân của triều đình Huế đang "án binh bất động, tự giam chân" (chủ trương "trì cửu") đằng sau các phòng tuyến thì đại quân của họ lũ lượt kéo vào Nam.

Di tích còn lại

Hiện nay ở bán đảo Sơn Trà, ngay gần cổng vào Cảng Tiên Sa Đà Nẵng, vẫn còn nhà tưởng niệm nơi chôn cất các binh lính liên quân Pháp – Tây Ban Nha chết trong trận Đà Nẵng. Nhà tưởng niệm này được người Pháp xây dựng năm 1898, cải táng xương cốt của các binh lính chôn chung trong một hố, còn mộ các sỹ quan chôn xung quanh vườn. Mặc dù đã hơn 100 năm trôi qua nhưng nhà tưởng niệm vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn bởi người dân địa phương và họ gọi là "Nghĩa trang Y Pha Nho". phải|Nghĩa trang Y Pha Nho phải phải

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Đà Nẵng (1858 – 1859)** hay **Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất** là trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp – Việt (1858 –
**Trận Đà Nẵng (1859–1860)** hay **Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ hai** là một trong những trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Thành Điện Hải** là một di tích quốc gia đặc biệt tọa lạc tại thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Tòa thành được xây dựng lần đầu vào năm Gia Long thứ 12 (năm 1813)
**Bóng đá** là tên gọi chung của một nhóm bao gồm nhiều môn thể thao đồng đội khác nhau nhưng đều có liên quan tới việc đá một trái banh vào khung thành để ghi
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Trận Biên Hòa** hay **Pháp đánh chiếm Biên Hòa** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 xảy ra từ ngày 14 tháng 12 năm 1861 và kết thúc vào ngày 7 tháng Giêng
**Phanxicô Trần Văn Trung** hay **Nguyễn Văn Trung** là một cai đội trong biên chế quân đội của Nhà Nguyễn theo đạo Công giáo, tử vì đạo dưới triều vua Tự Đức, được Giáo hội
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Chiến dịch Nam Kỳ** là chiến dịch Pháp giành quyền bảo hộ toàn bộ miền Nam Kỳ, nhà Nguyễn bắt đầu từ năm 1858. Pháp phát động cuộc chiến tranh đầu tiên tại bán đảo
**Trần Ngọc Thành** (khoảng 1834 tháng 5 năm 1862) () vốn tên là Trần Phôi Thành (), sinh tại Quảng Tây, là tướng quân của Thái Bình Thiên Quốc, sau được phong làm _Anh vương_.
nhỏ|Chân dung Đỗ Quang**Đỗ Quang** (Chữ Nho: 杜光; 1807-1866), trước có tên là **Đỗ Tông Quang**, sau bỏ chữ _Tông_ vì kị húy vua Thiệu Trị. Ông làm quan trải ba triều vua: Minh Mạng,
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Utagawa Hiroshige** (, còn ; (Ca Xuyên Quảng Trùng), ), tên khai sinh: **Andō Hiroshige** ( (An Đằng Quảng Trùng)); 1797–12 tháng 10 năm 1858), là nghệ sĩ ukiyo-e người Nhật Bản và được
**Danh sách các nhà phát minh** được ghi nhận. ## Danh sách theo bảng chữ cái ### A * Vitaly Abalakov (1906–1986), Nga – các thiết bị cam, móng neo leo băng không răng ren
**_Nguồn gốc các loài_** (tiếng Anh: _On the Origin of Species_) của Charles Darwin (xuất bản năm 1859) có thể được coi là một trong các ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
nhỏ|Đương kim vô địch thế giới [[Gukesh Dommaraju người Ấn Độ|290x290px]] **Giải vô địch cờ vua thế giới** là giải đấu được tổ chức để xác định nhà vô địch thế giới về cờ vua.
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
Tượng Phật [[A-di-đà do vua Gia Long dâng cúng năm 1804]] **Chùa Khải Tường** là một ngôi cổ tự, trước đây tọa lạc trên một gò cao tại ấp Tân Lộc, thuộc Gia Định xưa;
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Tự Đức** ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là **Nguyễn Phúc Hồng Nhậm** (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thì** (阮福時), là vị hoàng đế
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký** (chữ Hán: 張永記, 1837–1898), tên hồi nhỏ là **Trương Chánh Ký**, hiệu **Sĩ Tải**, là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa,
**Georges-Eugène Haussmann** (; 27 tháng 3 năm 180911 tháng 1 năm 1891), thường được gọi là **Nam tước Haussmann**, là một quan chức Pháp từng giữ chức tỉnh trưởng của Seine (1853–1870), được Hoàng đế
**Charles Ammi Cutter** (sinh ngày 14 tháng 03 năm 1837 mất ngày 6 tháng 9 năm 1903) là một thư viện viên người Mỹ. ## Tiểu sử Cutter sinh ra ở Boston, Massachusetts. Dì của
**Phan Khắc Thận** (潘克慎, 1798-1868), hiệu: _Châu Lưu_, là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Phan Khắc Thận** sinh năm Mậu Ngọ (1798) tại làng Tư Cung,
**Khởi nghĩa Ấn Độ năm 1857** là một cuộc nổi dậy lớn, nhưng cuối cùng không thành công, xảy ra ở Ấn Độ vào năm 1857-58 chống lại ách cai trị của Công ty Đông
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Trương Quyền** (1844-1871), còn có tên **Trương Huệ** hay **Trương Tuệ**, là một thủ lĩnh trong phong trào kháng Pháp ở nửa sau thế kỷ 19 tại Nam Kỳ, Việt Nam. Ông được người dân
**Innsbruck** (, /ˈɪnʃprʊk/) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal
nhỏ|phải|Chân dung Vũ Phạm Khải **Vũ Phạm Khải** (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái
**Trương Đăng Quế** (chữ Hán: _張登桂_, 1793-1865), tự: **Diên Phương**, hiệu: **Đoan Trai**, biệt hiệu: **Quảng Khê**; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử
**Chỉ dụ chống Pháp năm 1860 của hoàng đế Tự Đức** là bản chỉ dụ được vua Tự Đức ban tới toàn thể quân dân nhằm chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp
Nam mai trên gò Mai hiện nay. **Chùa Cây Mai** còn có tên là **Mai Sơn tự** (chùa núi Mai) hay **Mai Khâu tự** (chùa gò Mai), tọa lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1880** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 24, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 2 tháng 11 năm 1880. Ứng
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Bóng bầu dục theo luật Úc**, **bóng bầu dục Úc**, chính thức được gọi là **Australian football**, hay gọi ngắn gọn là **Aussie rules**, hay **footy**, là môn thể thao tiếp xúc được chơi giữa
**Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa** (chữ Hán: 阮福靜和; 1830 - 22 tháng 4 năm 1882), biểu tự **Quý Khanh** (季卿), lại có tự khác **Dưỡng Chi** (養之), hiệu **Huệ Phố** (蕙圃), lại có hiệu **Thường Sơn**
**Mạc Như Đông** (?-1873) hay **Trần Nghị Đông** là một quan nhà Nguyễn đã tham gia chống Pháp, dưới trướng của Nguyễn Tri Phương. Ông là cháu nội của Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ.
**Léopold II của Bỉ** (tiếng Pháp: _Léopold Louis Philippe Marie Victor_, tiếng Hà Lan: _Leopold Lodewijk Filips Maria Victor_; 9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909) là vị vua thứ hai
**Phạm Phú Thứ** (chữ Hán: 范富庶; 1821 – 1882), trước khi đỗ ,tên là **Phạm Hào** (khi đỗ Tiến sĩ được vua Thiệu Trị đổi tên là **Phú Thứ**), tự **Giáo Chi** (教之), hiệu **Trúc
**Dòng Salêdiêng Don Bosco** (tiếng Anh: _Salesians of Don Bosco_, viết tắt: **SDB**), tên chính thức là **Hội dòng Thánh Phanxicô Đệ Salê** (tiếng Latin: **Societas Sancti Francisci Salesii**), là một tu hội Công giáo