✨Trận Lạng Sơn (1885)

Trận Lạng Sơn (1885)

Trận Lạng Sơn (1885) hay Pháp đánh Lạng Sơn là một chiến dịch gồm vài trận giao tranh lớn nhỏ giữa quân Pháp và quân Thanh, đã diễn ra từ đầu tháng 2 năm 1885 và kết thúc vào 1 tháng 4 cùng năm.

Kết thúc cuộc chiến, quân Pháp đại bại khiến Chính phủ Jules Ferry ở Paris bị đổ, nhưng cuối cùng Pháp - Thanh cũng ký kết được hiệp ước nhằm chấm dứt chiến tranh. Điều đó cũng có nghĩa, kể từ ngày 9 tháng 6 năm 1885 (ngày ký hiệp ước Thiên Tân mới), nhà Thanh chính thức thừa nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Trước trận chính

Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan

Tức giận vì quân Thanh đã giao chiến và gây nhiều thiệt hại cho quân đội Pháp ở trận Bắc Lệ, chính phủ Pháp đòi triều đình nhà Thanh (Trung Quốc) phải bồi thường thiệt hại 250 triệu franc. Sau 7 tuần thương thuyết dai dẳng về khoản tiền trên, ngày 5 tháng 8 năm 1884, Phó Đô đốc Amédée Courbet, chỉ huy hạm đội Đông Hải của Pháp, được lệnh nã súng tấn công bất ngờ pháo đài Cơ Long ở phía Bắc Đài Loan, rồi cho quân đổ bộ nhưng bị quân Thanh phản công, phải rút lui.

Ngày 23 tháng 8, tướng Courbet chuyển sang tấn công hải cảng Phúc Châu (Quảng Đông), bắn phá nhiều pháo đài và đánh chìm chiến thuyền quân Thanh cùng một số tàu buôn neo tại bến. Sau đó tướng Courbet lại đem quân quay lại đánh chiếm Cơ Long, quần đảo Bành Hồ và ra lệnh phong tỏa Đài Loan.

Trong lúc cuộc chiến tranh Pháp - Thanh leo thang thì quân Thanh cũng lũ lượt kéo sang đối đầu với quân Pháp ở vùng trung châu Bắc Kỳ (Việt Nam). Hải quân Pháp đánh chìm chiến thuyền tại [[Phúc Châu.]]

Vài trận khai cuộc

Sau khi thua to ở Bắc Lệ (nay thuộc xã Tân Thành huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn), ngày 8 tháng 9 năm 1884 Thiếu tướng (général de division) Millot xin về Pháp, giao quyền lại cho Chuẩn tướng Louis Brière de l'Isle. Dưới sự chỉ huy của Brière, quân Pháp lần lượt tiến lên chiếm Kép (8 tháng 10) và Chũ (12 tháng 10).

Đến đầu năm 1885 thì Brière de l'Isle được thăng Thiếu tướng lại được chi viện thêm hơn 1.000 quân từ Pháp sang. Với quân số hơn 7.000 lính quân Pháp mới mở cuộc hành quân đánh Lạng Sơn, phối hợp với cuộc tấn công của hạm đội Pháp trên vùng biển Trung Quốc. Quân Pháp chia thành 2 đại đoàn, một do Chuẩn tướng De Négrier thống lãnh và một do Đại tá Giovanninelle chỉ huy.

*Trận núi Bóp Đầu tháng 2 năm 1885, tướng De Négrier dẫn 5 tiểu đoàn lính từ Chũ (nay thuộc huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang) tiến về núi Bóp để đánh tiền quân của quân Thanh đang đóng giữ con đường đi Lạng Sơn. Theo kế hoạch thì trong lần hành quân này sẽ có đạo quân thứ nhì của Đại tá Giovanninelle cùng tham chiến nhưng rốt cuộc Giovanninelle được phái đi giải vây cho quân Pháp ở thành Tuyên Quang nên chỉ có đạo quân của tướng De Négrier tiến lên Lạng Sơn. Hai bên giao chiến kịch liệt được hai ngày thì quân Thanh rút lui nhưng quân Pháp cũng phải rút về Chũ sau khi bị thiệt hại nặng. Trận này phía Pháp có 100 người thiệt mạng và bị thương, trong đó có 1 quan ba, 2 quan hai.

*Trận Phố Vỹ Trên đường đi từ Chũ lên Phố Vỹ, quân Pháp lại bị tổn thất nhiều ở Hạ Hòa. Trong 5 ngày họ mới vượt qua non 30 cây số đường hiểm yếu lại bị nghĩa quân người Việt mai phục cản bước tiến. Ngày 11 tháng 2 thì quân Pháp chiếm được Phố Vỹ, gần Lạng Sơn với tổn thất trên 200 lính. De Négrier trước đã lên đồn Kép, dương thanh thế tiến binh, rồi lẻn về đồn Chũ đem quân qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn Sung, rồi sang lấy Tuần Muội (tên cũ của ải Chi Lăng). :Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân Pháp đã chặn mất đường về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh tràn lên đến Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng Chạp thì lấy được thành (GS. Giàu ghi ngày 13 tháng 2). Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng Chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử trận và 222 người bị thương.

:nhỏ|Bản đồ quân sự khu vực quan ải Lạng Sơn (1850-1900) (bao gồm Trấn Nam Quan / Ải Nam Quan / Ải Du Thôn) nhìn từ phía Trung Quốc''Lấy xong thành Lạng Sơn, quân Pháp nghỉ ngơi mấy ngày, rồi lại tiến lên đánh Đồng Đăng. Quân Tàu chạy phân ra làm hai ngả: một chạy lên Thất Khê, một ngả chạy lên cửa Nam Quan về Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng 1 năm Ất Dậu (1885), thì Thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam Quan, truyền phá Ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.

:...''Quân Tàu tuy đã thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan Đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng lại đồn ở Long Châu, chực song đánh lấy lại Lạng Sơn. Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), Quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, Thiếu tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu. Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8, Thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, còn những người bị thương thì đem về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có 35.000 người. :''Ngày 13 thì quân Tàu tràn sang đánh Kỳ Lừa. Thiếu tướng De Négrier bị thương nặng, phải giao quyền lại cho Trung tá Herbinger, để chống với quân Tàu. Nhưng bấy giờ quân Tàu sang đông quá, Trung tá phải bỏ thành Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và đồn Kép. :''...Bên Pháp tiếp được điện tín của Trung tướng Brière de I' Isle đánh về nói quân Pháp phải bỏ thành Lạng Sơn, thì lòng người náo động cả lên. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn ký tờ giao ước định chiến với nước Tàu...

Theo sách Đại cương lịch sử Việt Nam tập II, thì sau hai tháng ráo riết chuẩn bị, quân Pháp mới dám tiến quân đánh chiếm Lạng Sơn (23 tháng 2 năm 1885). Đội quân thực dân đánh thọc sâu vào Long Châu, cách biên giới 80 cây số trong nội địa Trung Quốc, cốt để buộc Bắc Kinh phải sớm ký kết điều ước mới. Nhưng đêm 21 rạng sáng 22 tháng 3, quân Thanh bất ngờ phản công, tiến lên chiếm lại cửa ải Nam Quan, đuổi quân Pháp đang đóng giữ ở đó phải bỏ chạy về Đồng Đăng.

Sau đó, quân Pháp do tướng De Négrier chỉ huy đã phản công mạnh mẽ, vượt qua cửa ải trên, liên tục đánh phá các đồn quân Thanh trên con đường Nam Quan - Bằng Tường. Nhưng rồi quân Pháp lại bị đánh bật trở lại, phải rút về phía bên này biên giới, rồi hỗn loạn tháo chạy về Lạng Sơn ngày 26 tháng 3, bỏ lại trên chiến trường nhiều xác lính chết, lính bị thương và quân trang quân dụng.

Tại Lạng Sơn, quân Pháp chưa kịp chấn chỉnh lại đội ngũ, thì ngày 28 tháng 3 quân Thanh lại tiến đánh Kỳ Lừa, sát thành Lạng Sơn. Trận đánh diễn ra rất ác liệt, Đại tá Herbinger (Việt Nam sử lược ghi Trung tá) chỉ huy thay tướng De Négrier vừa bị trọng thương, liệu thế không giữ được Lạng Sơn nên phải ra lệnh rút chạy về Phủ Lạng Thương ngay trong đêm đó. Dọc đường chạy tháo thân, quân Pháp đã vứt cả súng đại bác, hòm đạn; quẳng cả đồ đạc, hành lý xuống sông, đốt giấy tờ sổ sách, đập vỡ cả máy điện tín. Mãi đến ngày 1 tháng 4, quân Pháp mới về đến Chũ..

Bàn luận

Sử gia Phạm Văn Sơn viết: :Đáng buồn cười là khi quân Pháp hấp tấp triệt thoái thì quân Tàu cũng vội vã rời khỏi thành Lạng. Đến đồn Thanh Mọi, Trung tá Herbinger lại đánh điện cho tướng Brière de I' Isle rằng quân đội của y đang bị quân Tàu vây khốn ở Chũ và ở Đồng Sông... Tướng Tổng tư lệnh trả lời: "chỉ rút lui khi nào cần thiết". Nhận được điện văn này, y cho quân sửa soạn gấp để lên đường, sau khi cho đốt sổ sách, phá hủy máy truyền tin, lương thực và các thứ khác. Ngày 31 tháng 3 năm 1885, 3.000 quân Pháp đã phải lẩn trốn trước 40 tên lính Tàu, đó là lời than chua chát của sử gia Taboulet. Còn chính khách Waldeck- Rousseau phải rên lên rằng: "Tôi nghĩ rằng đến ngay trận Waterloo xưa kia cũng khó có thể gây ra một cuộc triệt binh thảm hại đến thế!" . :Cuộc rút lui khỏi Lạng Sơn của Pháp đáng kể là thảm hại và đáng buồn cười, bởi quân Pháp phải trở về khởi điểm sau 5 tháng sửa soạn công phu và chiến đấu tổn nhiều xương máu.

GS. Trần Văn Giàu cho rằng: :Ảnh hưởng của cuộc đại bại ở Lạng Sơn về bên Pháp rất lớn. Tại nghị viện, Thủ tướng Jules Ferry đứng như một tội nhân. Bằng 306 phiếu phản đối, chính phủ Jules Ferry đổ. Một ê kíp khác lên thay để tiếp tục một chính sách xâm chiếm thuộc địa. :Thắng ở Lạng Sơn, trên sông Hồng; quân Vân Nam, Quý Châu có 20 quân doanh, ấy thế mà tuyệt nhiên tướng Sầm Dục Anh không chịu nhúc nhích. Nếu trong lúc Pháp bị mắc ở lạng Sơn và Tuyên Quang, mà quân đội của Tôn Thất Thuyết ở Huế nổi lên đánh Pháp, vua Hàm Nghi ra lệnh Cần Vương, thì cơ thắng lợi không phải là không còn nữa. :Để rồi ngày tháng 4 năm 1885, nghĩa là 3 ngày sau khi binh đoàn của Pháp phải chạy về Phủ Lạng Thương thì Paris và Bắc Kinh ký kết đình chiến. Tháng 5, quân Thanh rút hết về nước. Ngày 9 tháng 6 năm 1885, hiệp ước Thiên Tân ra đời. Như thế là cuộc chiến tranh Trung - Pháp chấm dứt, và cũng có nghĩa là triều đình Thanh thừa nhận quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam.. Theo sách Đại cương lịch sử Việt Nam tập II: :Ảnh hưởng cuộc đại bại của Pháp ở Lạng Sơn về đến Pháp rất lớn. Dư luận phản đối cuộc "chiến tranh xâm lược phiêu lưu" trong nhân dân Pháp đến nay lại có dịp bộc phát mạnh mẽ làm cho giới tư bản tài chính cầm quyền vô cùng lo sợ...Tại nhà hối đoái, những giấy cho vay xuống giá còn mạnh hơn hồi xảy ra chiến tranh Pháp – Đức năm 1870. Tất cả các báo đều lớn tiếng công kích Chính phủ Jules Ferry...

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Lạng Sơn (1885)** hay **Pháp đánh Lạng Sơn** là một chiến dịch gồm vài trận giao tranh lớn nhỏ giữa quân Pháp và quân Thanh, đã diễn ra từ đầu tháng 2 năm 1885
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
:_Về một cửa khẩu tương ứng của Việt Nam, xem Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị_ nhỏ|320x320px|Khẩu ngạn Hữu Nghị Quan ngày nay **Hữu Nghị quan** (, tên cũ là **Trấn** **Nam quan** ("cửa ải
**Tràng Định** là một huyện biên giới nằm ở phía bắc thuộc tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Tràng Định nằm ở phía bắc của tỉnh Lạng Sơn, nằm cách thành phố
**Phan Đỉnh Tân** (; 1828-1888), tự **Cầm Hiên** (琴轩), là một nhân vật chính trị, quân sự thời nhà Thanh. Phan chính là người chỉ huy quân Thanh đánh bại quân Pháp tại trận Lạng
**Trận Tuyên Quang** hay **Pháp đánh thành Tuyên Quang** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ khoảng cuối tháng 5 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 3
**Trận Bắc Lệ** hay còn gọi là **Trận cầu Quan Âm**, đã diễn ra từ ngày 23 tháng 6 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 7 cùng năm, là một trận giao
**Trận Hưng Hóa** hay **Pháp đánh thành Hưng Hóa** là một phần của Chiến tranh Pháp–Đại Nam diễn ra từ ngày 11 tháng 4 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng 4 cùng
**Trận Hòa Mộc** ngày 2 tháng 3 năm 1885 là một trận giao tranh quyết liệt trong cuộc chiến Pháp-Thanh (8/ 1884 đến 4/1885). Trong trận này lữ đoàn I do Đại tá Giovanninelli chỉ
**Trận Nam Định** (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Hoàng Đình Kinh** (1830 – 1888), còn gọi là **Cai Kinh**, ông là một thủ lĩnh người Tày lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong vòng 7 năm(1882 – 1888) ở Lạng Giang vào
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
**Hoàng Nguyễn Thự** (1749-1801), tự **Đông Hy**, hiệu **Nghệ Điền**, là danh sĩ thời Lê trung hưng và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Hoàng Nguyễn Thự sinh năm Kỷ Tỵ
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
nhỏ|Tướng Louis Briere de lIsle **Louis Alexandre Espirit Gaston Brière de l'Isle** (4 tháng 6, 1827 - 19 tháng 6, 1897) là một tướng quân đội Pháp. Ông từng làm thống đốc Senegal (1876–81), và
Đây là bản dịch tiếng Việt của tham luận (bằng tiếng Anh) của TS. Trần Đức Anh Sơn đã viết để tham gia “Conference on Nguyen Vietnam: 1558 – 1885” (Hội thảo về nhà Nguyễn
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _corps expéditionnaire du Tonkin_) là một bộ chỉ huy quân sự quan trọng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) từ tháng 6 năm 1883
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Lịch sử quân sự Việt Nam** hay **Quân sử Việt Nam** là quá trình hình thành và phát triển các hoạt động quân sự trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, bắt đầu
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Pháp thuộc** là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế kí Hòa ước Giáp Thân cho đến 1945 khi Pháp
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Phùng Tử Tài** (chữ Hán: 冯子才, phiên âm Wale Giles: Feng Zicai; 1818 - 1903), quê ở Quảng Tây, Trung Quốc, là một vị tướng nhà Thanh cuối thế kỷ XIX, danh tướng chống Pháp
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
Mộ Hoàng Kế Viêm tại làng Văn La,huyện Quảng Ninh, Quảng Bình **Hoàng Kế Viêm** (1820 - 1909) là phò mã và là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Ông Ích Khiêm** (翁益謙, 1829 - 1884) tự **Mục Chi**, là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Ông Ích Khiêm** sinh ngày 21 tháng 12 năm
**Quảng Ninh** là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc
**Hải Dương** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
nhỏ|Chân dung ông Đoàn Đình Duyệt **Đoàn Đình Duyệt** (段廷𧀲, 1862 - 1929) còn có tên là **Đoàn Đình Nhàn** , hiệu là **Đức Khê**, tên thụy là **Văn Ý,** Nam tước, Đại thần Cơ
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Hòa ước Thiên Tân 1884** hay **Thỏa thuận Thiên Tân 1884** (tiếng Pháp: _Accord de Tientsin_) hay **Thỏa thuận Lý-Fournier** là hiệp ước ký ngày 11/05/1884, nhằm giải quyết cuộc chiến tranh không chính thức
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Quảng Tây** (Tiếng Tráng: _Gvangjsih_; chính tả kiểu cũ: _Gvaŋзsiƅ_; chữ Hán giản thể: 广西; chữ Hán phồn thể: 廣西; bính âm: _Guǎngxī_), tên đầy đủ **Khu tự trị
Đây là danh sách danh nhân sinh ra ở tỉnh Quảng Bình, Việt Nam theo từng lĩnh vực. ### Chính trị gia #### Nhà Hồ * Hoàng Hối Khanh (1362-1407), Lệ Thủy #### Nhà Mạc
**Lê Trực** (chữ Hán: 黎直, 1828-1918) là một võ quan thời nhà Nguyễn và thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương cuối thế kỉ XIX tại quê nhà. Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881
**Nguyễn Thiện Dương** (?-1888), còn gọi là **Lãnh Giang**, là 1 thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp của khởi nghĩa Bãi Sậy trong phong trào Cần Vương. ## Thân thế Năm sinh của ông không
**Tăng Bạt Hổ** (chữ Hán: 曾拔虎, 1858 - 1906), tự là **Sư Triệu**, hiệu là **Điền Bát 田八**, tên thật là **Tăng Doãn Văn 曾允文**, là chí sĩ Việt Nam tham gia chống Pháp cuối
**Tạ Hiện** (chữ Hánː 謝現; 1841 - 1887 hoặc 1893), còn có tên là **Tạ Quang Hiện**, quê tại thôn Quang Lang xã Thụy Hải, huyện Thụy Anh (nay thuộc huyện Thái Thụy), tỉnh Thái
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1: **Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao. **Hans Hürlimann trở thành tổng thống Thụy Sĩ **Hoa