✨Trận Smolensk (1941)

Trận Smolensk (1941)

Trận Smolensk là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động phản kích của quân đội Liên Xô chống lại Cụm tập đoàn quân Trung tâm và một phần Cụm tập đoàn quân Bắc của quân đội Đức Quốc xã đang tấn công theo hướng trực chỉ Moskva theo Kế hoạch Barbarossa. Trong vòng hai tháng (từ 10 tháng 7 - 10 tháng 9 năm 1941), cuộc chiến ác liệt tiếp tục diễn ra trên một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía Đông quân khu Belarussia và phía tây quân khu Moskva với mặt trận trải dài kéo từ 600 đến 650 km trên tuyến từ Idritsa - Velikiye Luki ở phía bắc tới Lgov - Novgorod-Seversky ở phía nam; có chiều sâu lên đến 200–250 km từ Polotsk, Vitebsk và Zlobin ở phía tây đến Andreapol, Yartsevo, Yelnya và Trubchevsky ở phía đông.

Chiến dịch được phát động bởi các đòn tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 2 do tướng Heinz Guderian chỉ huy và Tập đoàn quân xe tăng 3 do tướng Hermann Hoth chỉ huy thuộc Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức Quốc xã. Cuộc tấn công bao gồm hai đòn công kích vu hồi liên tiếp trên khu vực từ Vitebsk-Orsha đến Smolensk nhằm bao vây tiêu diệt một phần binh lực của bốn phương diện quân Liên Xô. Phòng thủ tại tuyến này bao gồm Phương diện quân phía Tây do nguyên soái Semyon Timoshenko chỉ huy, Phương diện quân Dự bị do đại tướng Georgi Zhukov chỉ huy, Phương diện quân Trung tâm do thượng tướng Fyodor Kuznetsov chỉ huy và Phương diện quân Bryansk do trung tướng Andrei Yeremenko chỉ huy.

Mặc dù một phần Tập đoàn quân 16, Tập đoàn quân 19 và Tập đoàn quân 20 (Liên Xô) bị bao vây và tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh ở phía Nam Smolensk nhưng một phần lớn lực lượng của các tập đoàn quân 16 và 19 đã rút lui an toàn. Việc "để sổng" một lực lượng lớn quân đội Liên Xô như vậy đã khiến Hitler quyết định từ bỏ chiến thuật bao vây tiêu diệt các lực lượng Hồng quân, thay vào đó quân Đức tập trung vào mục tiêu tấn công các khu vực giàu tiềm năng kinh tế của Liên Xô như các vùng nông nghiệp trù phú ở đồng bằng ven các con sông Đông, Dniepr, Volga; các khu công nghiệp Voronezh, Kharkov, Zaporozhe, Poltava, Krasnohrad, Nikolaev, Krivoi Rog...; nhằm phá hoại nền kinh tế của Liên Xô, hy vọng bằng cách đó làm cho họ suy kiệt và đi đến chỗ sụp đổ.

Bối cảnh

Khu vực Smolensk và vùng phụ cận (thường được gọi là vùng đất cao Smolensk) có một vị trí quan trọng về địa quân sự. Là trung tâm của vùng đất cao Trung Nga, tỉnh Smolensk là nơi bắt nguồn của nhiều con sông lớn ở nước Nga. Địa hình khu vực phía Nam Smolensk bị chia cắt bởi các con sông nhỏ và không sâu nên không quá khó khăn để vượt qua. Nằm cách Moskva 378 km về phía Tây Tây Nam trên thượng nguồn sông Dnepr, Smolensk là đầu mối giao thông quan trọng nối Moskva với các vùng Pribaltic, Belorussia và xa hơn nữa, đến Ba Lan và Trung Âu. Trong lịch sử, địa bàn tỉnh Smolensk đã từng nơi tranh chấp của các thế lực lãnh chúa và là nơi diễn ra nhiều trận đánh quan trọng. Với chiều dài 255 km từ Bắc xuống Nam và chiều rộng 285 km từ Đông sang Tây, Smolensk là cửa ngõ phía Tây của Moskva, án ngữ một trong các con đường giao thông lớn và quan trọng nhất của Liên Xô từ Brest qua Minsk, Orsha đến Moskva. Đối với quân đội Liên Xô, giữ được Smolensk cũng có nghĩa là thực hiện được chiến lược phòng thủ từ xa với Moskva. Đối với quân đội Đức Quốc xã, chiếm được Smolensk cũng có nghĩa là mở được "khóa cổng" để tiếp cận Moskva.

Sau thất bại của các lực lượng chính thuộc Phương diện quân miền Tây của Liên Xô trong trận Białystok-Minsk, các lực lượng cơ động của Tập đoàn quân Trung tâm đã tiến đến sông Dvina Tây gần Vitebsk (Tập đoàn quân xe tăng 3) và Orsha, Mogilev (Tập đoàn quân xe tăng 2). Về phía Liên Xô, bộ phận bị bao vây của Phương diện quân miền Tây (Liên Xô) gồm các tập đoàn quân 4 và 13 đã bị suy yếu khi rút khỏi khu vực biên giới đã được đưa về phía sau để tổ chức lại và tái trang bị. Ngày 2 tháng 7, các lực lượng này được điều động phối thuộc trở lại Phương diện quân Tây trên tuyến phòng thủ chiến lược thứ hai. Từ ngày 2 tháng 7, Nguyên soái S. K. Timoshenko được chỉ định làm Tư lệnh Phương diện quân Tây thay đại tướng D. G. Pavlov đã bị bắt. Trung tướng A. I. Yeryomenko được cử làm phó tư lệnh.

Cho đến ngày 3 tháng 7 năm 1941, trong khi Stalin đọc "Lời kêu gọi toàn dân tiến hành Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại quân phát xít xâm lược" trên Đài phát thanh Moskva thì các quân đoàn xe tăng Đức đã vượt xa bộ binh và tiếp tục cuộc tấn công của họ về phía đông. Quân đội Liên Xô vẫn chưa thể triển khai đầy đủ một tuyến phòng thủ liên tục và có chiều sâu. Một số binh đoàn đã được điều đến tăng cường cho các khu vực Polotsk và Sebezh, đồng thời tăng cường cho tập đoàn quân 22 bảo vệ các đầu cầu tại sông Desna. Theo kế hoạch, Tập đoàn quân 20 tổ chức phản công tại Lepel. Tập đoàn quân 21 tấn công vượt sông Desna tại Bykhov và Rogachev. Trong quá trình phản công ở Lepel, các quân đoàn 5 và 7 của quân đội Liên Xô đã bị tổn thất nghiêm trọng, đặc biệt là về xe tăng. Kết quả là trước trận Smolensk, tại các bàn đạp Idritsa và vùng phía nam của Zhlobin, các tập đoàn quân 37 và 48 bị quân Đức áp đảo về ưu thế binh lực mặc dù có tập đoàn quân 24 bố trí ngay phía sau. Các đơn vị tuyến đầu của mặt trận đã không được chuẩn bị sẵn sàng về phương tiện kỹ thuật và không có sự ổn định cần thiết để ngăn chặn cuộc tấn công của quân Đức.

Các lực lượng thiết giáp Đức đã tạm dừng chân tại mặt trận trong suốt một tuần và trong khi họ đang sắp sửa tung ra một đợt tấn công mới thì một trận mưa lớn bất chợt đổ ập xuống khu vực trận địa trong đầu tháng Bảy. Điều này khiến cho đường sá trở nên lầy lội và gây nhiều trở ngại lớn trong việc hành tiến: các đơn vị quân Đức ở tiền tuyến đã mất đến hàng tiếng đồng hồ nhưng vẫn không sao bò lết nổi trên những con đường lầy lội ấy. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tuyến mặt trận của quân đội Liên Xô tạm thời được ổn định. Nhiều cầu cống bị phá hủy, và - lần đầu tiên - quân đội Liên Xô đã chôn mìn dày đặc trên trận địa để chặn bước tiến quân Đức. Các bãi mìn và vật cản chống tăng được bố trí dày đặc nhất tại tuyến đường từ Farinovo đi Polotsk, khu tam giác phòng thủ Dzisna-Dyornovichi-Borovukha (Navapolatsk), cụm phòng thủ Obol (Obal) trên bờ đông sống Dvina Tây, tuyến đường từ Borisov qua Tolochin đi Orsha, tuyến đường từ Mogilev, Rogachev đi Smolensk, từ Orsha qua Gusino đi Smolensk và cuối cùng là phía tây khu phòng thủ Smolensk. Các chướng ngại này đã làm cho quân Đức bị thu hẹp chính diện hành quân và mất thêm thời gian chờ công binh gỡ mìn và dọn vật cản. Những chậm trễ trong hành tiến của quân Đức đã tạo cơ hội cho quân đội Liên Xô chuẩn bị cho một trận phản công quy mô lớn.

Mục tiêu kế hoạch tác chiến của các bên

Quân đội Đức Quốc xã

Mặt trận Xô-Đức giai đoạn từ [[tháng 6 đến tháng 8 năm 1941]] Mục đích tối hậu của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của phát xít Đức chính là thành phố Smolensk, chiếm được thành phố này là nắm giữ "chiếc chìa khoá" tiến tới thủ đô Moskva. Trong đợt tấn công mới vào khu vực phụ cận Moskva, quân Đức kỳ vọng rằng họ sẽ giành được những thắng lợi quyết định. Họ dự định sẽ cắt các lực lượng phòng thủ của Hồng quân thành 3 phần tại Polotsk-Nevel, Smolensk, Mogilev, bao vây tiêu diệt các khối quân này. Điều đó sẽ tạo tiền đề rất thuận lợi cho đợt tấn công sắp tới vào thủ đô Moskva.

Việc bao vây cánh phải của quân đội Liên Xô tại Polotsk-Nevel (Tập đoàn quân 22) sẽ do các lực lượng liên hợp của Cụm Tập đoàn quân Bắc và Trung tâm đảm nhiệm. Đòn tấn công của lực lượng chính của tập đoàn quân số 4 Đức sẽ nhằm vào các lực lượng chủ yếu của Phương diện quân Tây (Liên Xô) tại Smolensk (Các tập đoàn quân 20, 19 và 16) và Mogilev (tập đoàn quân 13).

Quân Đức đã quyết định tấn công bằng các đơn vị thiết giáp cơ động mà không cần đợi sự có mặt của các sư đoàn bộ binh, và đây là một điều bất ngờ đối với quân đội Liên Xô. Trong nhật ký của mình vào ngày 12 tháng Bảy, Franz Halder đã viết:

Mặc dù không nắm được kế hoạch và ý đồ phòng thủ của Liên Xô nhưng các chỉ huy quân đội Đức đã cố gắng nghiên cứu cuộc tấn công trên hướng Lepel và các sự kiện tiếp theo để phát hiện ra việc tập trung các tập đoàn quân chủ lực của Phương diện quân Tây đang hoạt động trên tuyến phòng thủ thứ hai.

Quân đội Liên Xô

Đối diện với quân Đức dọc theo sông Dnepr và sông Tây Dvina là hai tuyến phòng thủ của Quân đội Liên Xô, (được phương Tây quen gọi là phòng tuyến Stalin). Các lực lượng phòng thủ tuyến đầu gồm Tập đoàn quân 13 của Phương diện quân phía Tây và các Tập đoàn quân 20, 21 21 được điều động từ lực lượng dự bị thuộc Bộ Tổng tư lệnh tối cao (STAVKA). Lực lượng tuyến hai gồm Tập đoàn quân 19 đóng tại Vitebsk và Tập đoàn quân 16 đóng ở Smolensk. Về phía Đức, mối đe dọa từ Tập đoàn quân xe tăng 3 ở phía Bắc gây cho Bộ Tư lệnh phương diện quân Tây (Liên Xô) nhiều mối lo ngại nhất.

Do không có ưu thế hơn quân đội Đức Quốc xã về binh lực và phương tiện, đặc biệt là máy bay và xe tăng nên ý đồ tác chiến bao trùm của Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô là phòng ngự chiến lược với các biện pháp như sau: :1. Kìm giữ thật lâu chủ lực của đối phương trên các tuyến phòng thủ theo hình bậc thang nhằm tranh thủ được nhiều thời gian nhất để đưa các lực lượng từ tuyến sau tới và thành lập các đội dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng này trên những hướng quan trọng nhất. :2. Gây cho đối phương những thiệt hại lớn nhất có thể, làm cho đối phương mệt mỏi, hao hụt, dần dần mất đi sức mạnh đột kích nhằm tiến tới cân bằng so sánh lực lượng. :3. Đảm bảo thực hiện các biện pháp sơ tán thường dân và di chuyển các mục tiêu công nghiệp vào sâu trong nội địa đất nước, tranh thủ thời gian chuyển hướng nền công nghiệp sang phục vụ tối đa cho các nhu cầu chiến tranh. :4. Tích lũy tối đa binh lực, vũ khí và phương tiện để chuyển sang phản công khi có thời cơ.

Binh lực hai bên

Là một trong các trận đánh có tầm quan trọng đặc biệt trên cửa ngõ từ xa vào Moskva, do đó quân đội Đức và quân đội Liên Xô đã tung vào trận một khối lượng binh lực rất lớn.

Quân đội Đức Quốc xã

Ngoài các tập đoàn quân đã tham chiến từ đầu chiến tranh, Cụm tập đoàn quân Trung tâm được phối thuộc tập đoàn quân xe tăng 4 từ Cụm tập đoàn quân Bắc. Vào thời điểm khai trận, cụm quân này gồm 3 tập đoàn quân xe tăng mạnh nhất của quân đội Đức Quốc xã:

:1. Tập đoàn quân xe tăng 4 do tướng Erich Hoepner chỉ huy. :2. Tập đoàn quân xe tăng 3 do tướng Hermann Hoth chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn xung kích 23 do tướng Alfred Schubert chỉ huy gồm các sư đoàn 86, 110 và 206. : Quân đoàn xe tăng 39 do tướng Rudolf Schmidt chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 7, 12, 20 và các sư đoàn cơ giới 18, 21. : Quân đoàn cơ giới 57 do tướng Adolf-Friedrich Kuntzen chỉ huy gồm sư đoàn xe tăng 19 và sư đoàn cơ giới 14. :3.Tập đoàn quân xe tăng 2 do tướng Heinz Guderian chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn xe tăng 24 do tướng Leo Geyr von Schweppenburg chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 3, 4, sư đoàn cơ giới 10 và sư đoàn kỵ binh 1. :* Quân đoàn xe tăng 46 do tướng Heinrich Gottfried von Vietinghoff chỉ huy gồm sư đoàn xe tăng 10, các sư đoàn cơ giới SS "Đế chế" và "Đại Đức"

Đến giai đoạn 2 của chiến dịch, mới có thêm các tập đoàn quân dã chiến gồm bộ binh và kỵ binh cơ giới tham gia

Phía Đức đã huy động cho chiến dịch này toàn bộ không quân của Tập đoàn quân Trung tâm (Tập đoàn quân không quân 2 của tướng Albert Kesselring) và không đoàn 8 của tướng Richthofen.

:1. Tập đoàn quân 22 do trung tướng Philip Afanasievich Ershakov chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn bộ binh 51 do thiếu tướng A. A. Markov chỉ huy gồm các sư đoàn 98, 112 và 170. : Quân đoàn bộ binh 62 do thiếu tướng I. P. Karmanov chỉ huy gồm các sư đoàn 126, 174, 186. : Các đơn vị từ quân đoàn dự bị 29 do thiếu tướng A. G. Samokhin chuyển giao gồm các sư đoàn bộ binh 48, 50, 179 và 214. :2. Tập đoàn quân 19 do trung tướng Ivan Stepanovich Koniev chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn bộ binh 25 do thiếu tướng S. M. Chestokhvalov chỉ huy gồm các sư đoàn 127, 134 và 162. : Quân đoàn bộ binh 34 do trung tướng P. A. Khmelnisky chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 129 và 158. : Quân đoàn cơ giới 23 do thiếu tướng M. A. Miasnikov chỉ huy gồm sư đoàn cơ giới 220 và sư đoàn bộ binh 38 :3. Tập đoàn quân 20 do trung tướng Pavel Alekseyevich Kurochkin chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn bộ binh 69 do thiếu tướng M. A. Mozhilevich chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 153, 229, 233. : Quân đoàn bộ binh 2 do thiếu tướng A. N. Ermakov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 100 và 161. : Quân đoàn cơ giới 5 do thiếu tướng I. P. Aleksienko chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 13 và 17. : Quân đoàn cơ giới 7 do thiếu tướng V. I. Vinogradov chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 14 và 17. : Các đơn vị trực thuộc Bộ tư lệnh tập đoàn quân có các sư đoàn bộ binh 18, 73, 128 và 144, sư đoàn xe tăng 57 và sư đoàn cơ giới 1. :4. Tập đoàn quân 13 do trung tướng Fyodor Nikitich Remezov (từ ngày 15 tháng 7 là trung tướng Vasily Filippovich Gerasimenko) chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn bộ binh 61 do tướng F. A. Bakunin chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 53, 110 và 172. : Quân đoàn bộ binh 45 do thiếu tướng E. Ya. Magon chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 148 và 187. : Quân đoàn cơ giới 20 do thiếu tướng N. D. Vedeniev chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 26, 38 và sư đoàn cơ giới 210. : Các đơn vị trực thuộc Bộ tư lệnh tập đoàn quân có các sư đoàn bộ binh 137 và 160. :5. Tập đoàn quân 21 do thượng tướng Fyodor Isidorovich Kuznetsov chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn bộ binh 63 do trung tướng L. G. Petrovsky chỉ huy gồm các sư đoàn 61, 154 và 167. : Quân đoàn bộ binh 66 do thiếu tướng F. D. Sudakov chỉ huy chỉ có một sư đoàn bộ binh 232. : Quân đoàn bộ binh 67 do thiếu tướng F. F. Zhmachenko chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 102, 132 và 151. : Quân đoàn cơ giới 25 do thiếu tướng S. M. Krivoshein chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 50, 55 và sư đoàn cơ giới 219 : Các đơn vị trực thuộc Bộ tư lệnh tập đoàn quân có các sư đoàn bộ binh 75 và 117

Trong giai đoạn sau của chiến dịch, Phương diện quân Tây được bổ sung thêm:

:1. Tập đoàn quân 16 do trung tướng Mikhail Fiodorovich Lukin chỉ huy. Do quá nửa tập đoàn quân này được giữ lại Phương diện quân Tây Nam nên trong biên chế của nó chỉ có: : Quân đoàn bộ binh 32 do thiếu tướng T. K. Kolomtsev chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 46 và 152. : Các đơn vị từ quân đoàn dự bị 44 do thiếu tướng B. A. Yushkevitsch chuyển giao. :2. Tập đoàn quân 4 do tướng Leonid Mikhailovich Sandalov chỉ huy, trong biên chế có: : Quân đoàn bộ binh 26 do thiếu tướng Vasili Stepanovitsch Popov chỉ huy gồm các sư đoàn 6, 42, 55 và 143. : Quân đoàn bộ binh 47 do thiếu tướng S. I. Povetkin chỉ huy gồm các sư đoàn 121 và 155. :* Quân đoàn đổ bộ đường không 4 do thiếu tướng A. S. Zhadov chỉ huy

Phía Liên Xô huy động toàn bộ lực lượng không quân của bốn mặt trận (Tây, Trung tâm, Bryansk và Dự bị) và tập đoàn 3 không quân ném bom tầm xa.

Diễn biến chiến dịch

Diễn biến chiến sự tại khu vực Polotsk, Vitepsk, Orsha, Bobruisk

Đối với Quân đội Liên Xô, trận Smolensk (thực ra là một chiến dịch) kéo dài hơn 2 tháng và là thử thách rất lớn đối với quân đội Liên Xô. Mặc dù phải trả giá cực kỳ đắt nhưng chiến dịch đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong chỉ huy tác chiến đối với chiến dịch phòng ngự có quy mô cấp phương diện quân. Theo các nhà sử học quân sự Nga, chiến dịch chia thành nhiều giai đoạn và trận đánh dựa theo diễn biến chiến dịch của Hồng quân trên từng hướng nhằm ngăn chặn các đợt tấn công theo "chiến thuật gọng kìm" của quân đội Đức Quốc xã.

Cuộc phòng thủ Polotsk (2/7/1941 - 16/7/1941),

Trận phòng thủ Mogilev (5/7/1941 - 26/7/1941),

Trận phòng thủ Smolensk (10/7/1941 - 5/8/1941),

Trận phản công Bobruisk (13/7/1941 - 30/7/1941),

Trận phản công Dukhovshina (8/8/1941 - 10/9/1941)

  • Chiến dịch phản công Yelnya (30/8/1941 - 15/9/1941)

    Trận phản công Roslavl-Novozybkov (30/8/1941 - 12/9/1941)

Cuộc phòng thủ Polotsk

Đây là trận chiến khởi đầu chiến dịch Smolensk, diễn ra tại thành phố nhỏ Polotsk, phía Tây Bắc nước Nga. Vào tháng 7 năm 1941, đây là một trong những cứ điểm phòng thủ quan trọng của Quân đội Liên Xô trên tuyến sông Tây Dvina, nơi tiếp giáp hiểm yếu giữa Phương diện quân Tây và Phương diện quân Tây Bắc của Liên Xô. Sau các trận đánh bao vây và loại khỏi vòng chiến đấu hai tập đoàn quân 10 và 11 của Liên Xô tại khu vực Białystok-Minsk, tập đoàn quân xe tăng 3 đã tiến đến tuyến sông Dvina. Ngày 1 tháng 7, lợi dụng khe hở ở Pastavy, các chi đội phái đi trước của tập đoàn quân này là quân đoàn cơ giới 57 gồm sư đoàn xe tăng 19, các sư đoàn cơ giới 14 và 18 đã nhanh chóng vượt hơn 100 km tiếp cận Polotsk từ các hướng Nam, Tây Nam và Tây Bắc. Để lấp lỗ hổng trên tuyến phòng ngự tại khu vực này, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô điều tập đoàn quân 22 do trung tướng P. A. Ershakov chỉ huy với biên chế 6 sư đoàn bộ binh từ Quân khu Ural đến lập tuyến phòng thủ trên sông Dvina.

Ngày 3 tháng 7, sư đoàn xe tăng 19 (Đức) do tướng Otto von Knobelsdorff chỉ huy đã tiến hành các trận đánh trinh sát tại Dzisna trên bờ nam của sông Tây Dvina. Ngày hôm sau, với sự hỗ trợ của không quân, sư đoàn này đã chiếm được các đầu cầu vượt sông. Tuy nhiên, do thiếu phối hợp, sư đoàn cơ giới 18 (Đức) đã phải dừng lại trước khu phòng ngự Polotsk trên tuyến Vetrino - Farinovo do Sư đoàn bộ binh 174 (Liên Xô) do đại tá A. I. Zygin chỉ huy phòng thủ. Vấp phải sức kháng cự kịch liệt trong khu vực Polotsk, ngày 18 tháng 7, Bộ chỉ huy tập đoàn quân xe tăng 3 đã phải điều động sư đoàn cơ giới 14 từ Minsk lên tăng viện cho sư đoàn xe tăng 19 mở rộng bàn đạp tại Dzisna. Ngày 5 tháng 7, các sư đoàn 98 và 112 thuộc thuộc quân đoàn bộ binh 51 (Liên Xô) đã mở các trận phản kích nhằm chiếm lại khu vực đầu cầu Dzisna nhưng không thành công.

Cùng thời gian đó, trong suốt 10 ngày đầu tháng 7, Quân đoàn xung kích 23 và Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) tiến về Vitebsk, liên tục công kích cánh trái của tập đoàn quân 22. Từ ngày 5 đến 7 tháng 7, các sư đoàn bộ binh 98, 112 và 126 (tập đoàn quân 22) liên tục tập kích đánh phá các bên vượt sông Tây Dvina của quân Đức tại khu vực Dzisna, Dyornovichi và Borovukha làm cho sư đoàn xe tăng 19 và sư đoàn cơ giới 14 (Đức) phải tạm thời chuyển sang phòng ngự. Ngày 8 tháng 7, mặc dù những nỗ lực liên tục của quân Đức để mở rộng đầu cầu tại khu vực Dzisna bị đẩy lùi, nhưng sư đoàn bộ binh 126 cũng bị thiệt hại nặng. Sư đoàn trưởng, thiếu tướng M. A. Kuznetsov tử trận, hai trung đoàn trưởng bị bắt. Cơ quan chỉ huy sư đoàn bị phá huỷ. Ngày 5 tháng 8, sư đoàn bộ binh 186 (thuộc tập đoàn quân 22) bị sư đoàn xe tăng 20 (Đức) vượt sông Dvina đánh bật khỏi Ulla làm cho các sư đoàn bộ binh 14 và 153 (cũng thuộc tập đoàn quân này) đang chặn đánh sư đoàn xe tăng 7 (Đức) tại hồ chứa nước phía Đông Beshenkovichi bị hở sườn phải. Ngày 8 tháng 7, tướng Paul Shmidth điều sư đoàn cơ giới 18 từ chính diện Polotsk sang cánh phải tăng viện cho quân đoàn 39 tập trung đánh Vitebsk. Phối hợp với sư đoàn cơ giới 20, nó đánh thiệt hại nặng sư đoàn bộ binh 186 (Liên Xô), liên tục đánh chiếm Sirocina (ngày 8 tháng 7) và Gorodok (ngày 9 tháng 7). Ngày 10 tháng 9, sư đoàn xe tăng 20 (Đức) đã có mặt ở cửa ngõ phía Bắc Vitebsk.

Tập đoàn quân 22 đã bị cắt làm đôi. Ba sư đoàn của tập đoàn quân 22 phòng ngự trên hướng Polotsk bị tách khỏi ba sư đoàn ở phía Nam. Tuy nhiên, các lực lượng chính của quân đoàn bộ binh 62 vẫn kiềm chế các hành động của quân Đức. Sư đoàn bộ binh 174 bị bao vây vẫn cố gắng giữ vững khu phòng thủ Polotsk, củng cố và cố gắng khôi phục lại tình hình trong khu vực đột phá của quân Đức tại Borovukha. Ngày 11 tháng 7, tập đoàn quân 22 (Liên Xô) vẫn tiếp tục chiến đấu kịch liệt chống lại các lực lượng đối phương có ưu thế vượt trội, củng cố hai bên sườn khu phòng thủ Sebezh và Polotsk. Tướng Andrei Ivanovich Yeryomenko (phó tư lệnh Phương diện quân Tây) vạch kế hoạch mới: Quân đoàn bộ binh 51 chuẩn bị một tuyến phòng thủ mới trong khi các lực lượng cơ bản của Quân đoàn bộ binh 62 giữ Polotsk và phối hợp với Tập đoàn quân 19 bịt cửa ngỏ đột phá của các sư đoàn xe tăng 7, 20 và sư đoàn cơ giới 18 (Đức) tại khu vực Ulla.

Để khép chặt sườn trái của Cụm tập đoàn quân Trung tâm và sườn phải của Cụm tập đoàn quân Bắc, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã huy động thêm vào khu vực Polotsk-Nevel các quân đoàn 2 và 50 của tập đoàn quân 16 (Cụm tập đoàn quân Bắc) phối hợp với quân đoàn xung kích 23 (3 sư đoàn bộ binh), quân đoàn cơ giới 57 (sư đoàn xe tăng 19, sư đoàn cơ giới 14) và quân đoàn xe tăng 39 để tiêu diệt tập đoàn quân 22 Liên Xô. Ngày 12 tháng 7, sư đoàn xe tăng 19 và sư cơ giới 14 thuộc quân đoàn cơ giới 57 (Đức) tiếp tục công kích tập đoàn quân 22 (Liên Xô) tại khu vực Dzisna và phá vỡ được hàng rào phòng thủ tiền duyên. Phát triển tấn công ở phía đông bắc, sư đoàn xe tăng 19 đã chiếm được cơ sở hậu cần của tập đoàn quân và ngày hôm sau, tiếp tục uy hiếp Nevel. Nhưng tại tuyến phòng thủ thứ hai, sư đoàn 48 thuộc tập đoàn quân 22 đã chặn được bước tiến của sư đoàn cơ giới 18 (quân đoàn xe tăng 39). Tốc độ tấn công của sư đoàn cơ giới 18 bị chậm lại còn vì các lực lượng của quân đoàn bộ binh 62 (Liên Xô) đã triển khai phòng ngự phía sau Polotsk.

Ngày 15 tháng 7, sau khi tăng thêm áp lực tấn công trên toàn chính diện phòng thủ của tập đoàn quân 22 (Liên Xô), quân đoàn xung kích đã đánh chiếm phần phía Tây thành phố Polotsk. Đêm 16 tháng 7, quân đoàn này tiếp tục công kích phần còn lại của thành phố. Trước đó, quân đội Liên Xô đã phá hủy ba cây cầu trên sông Tây Dvina. Cùng ngày, sư đoàn xe tăng 19 phối hợp với sư đoàn xung kích 12 (cụm tập đoàn quân Bắc) tấn công Nevel.

Trên cánh phải, quân đoàn xung kích 23 phối hợp với quân đoàn bộ binh 6 Đức (thuộc tập đoàn quân 9) tiếp tục công kích các chốt phòng ngự của quân đội Liên Xô trên đường phố Polotsk. Trước nguy cơ đe dọa bị hợp vây tại Nevel, tập đoàn quân 22 phải rút các lực lượng cơ bản ra khỏi Polotsk về Velikiye Luki; nhưng một số đơn vị cản hậu vẫn tiếp tục chiến đấu đến ngày 19 tháng 7.

Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức, tướng Franz Halder viết trong trang nhật ký ngày 16 tháng 7:

Cũng trong thời gian từ 2 tháng 7 đến 9 tháng 7, các đơn vị của tập đoàn quân xe tăng số 2 Đức vượt sông Berezina tiến đánh Hồng quân: Quân đoàn cơ giới 47 tấn công Orsha và một bộ phận hỗ trợ tấn công Vitebsk nhưng bị Hồng quân tung ra các quân đoàn cơ giới số 5 và số 7 chặn lại. Quân đoàn cơ giới 46 tấn công Mogilev nhưng bị các đơn vị của tập đoàn quân 13 Xô viết chặn lại. *Quân đoàn cơ giới 24 tấn công tập đoàn quân 21 và đồng thời chiếm được Rogachep và Bykhov. Sau những giao tranh đẫm máu, tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức đã chiếm được một số đầu cầu trên sông Dnepr và chuẩn bị lực lượng để tiến đánh Smolensk.

Trận phòng ngự Mogilev

Chiến sự tại ngoại vi Mogilev

Xe tăng Đức tại Vitebsk, tháng 7 năm 1941 Diễn ra gần suốt tháng 7 năm 1941, trận phòng ngự tại khu vực Mogilev do quân đội Liên Xô thực hiện. Trận đánh này được coi là một trong hai trận đánh khởi đầu cho Chiến dịch Smolensk trên tuyến tiền đồn phòng thủ của Phương diện quân Tây (tái lập) nhằm ngăn chặn các đòn đột kích của các tập đoàn quân xe tăng Đức về hướng Moskva. Sau khi vượt qua tuyến phòng thủ mỏng yếu của tập đoàn quân 20 và quân đoàn đổ bộ đường không 4 (Liên Xô) trên các tuyến sông Berezina và Drut, quân đoàn cơ giới 46 thuộc tập đoàn quân xe tăng 2 do tướng Heinz Guderian đã nhanh chóng tiếp cận khu phòng thủ Mogilev. Đại bộ phận còn lại của tập đoàn quân này đã tiến đến tuyến sông Dnepr.

Ngày 5 tháng 7, quân đoàn bộ binh 61 do thiếu tướng F. A. Bakunin chỉ huy đã được điều động từ Orsha đến. Biên chế của nó có ba sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 53 của đại tá I. Ya. Bartenev, sư đoàn bộ binh 110 của đại tá V. A. Khlevtsev và sư đoàn bộ binh 172 của tướng M. T. Romanov. Ngay trong quá trình điều quân, các đơn vị này đã lần lượt tham gia chiến đấu trong khu vực phòng thủ phía Tây Mogilev một cách độc lập trong hành tiến. Ngày 7 tháng 7, trong khi chỉ huy quân đoàn 45 rút lui khỏi khu vực Molodechno để hội quân với chủ lực tập đoàn quân 13, tư lệnh tập đoàn quân, trung tướng P. M. Filatov đã bị thương nặng và qua đời tại quân y viện Moskva ngày 14 tháng 7. Phó tư lệnh tập đoàn quân F. N. Remezov tạm quyền chỉ huy đơn vị.

Trong các ngày 10 và 11 tháng 7, lực lượng của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) đã vượt sông Dnepr để triển khai tấn công Mogilev gồm có:

  • Quân đoàn xe tăng 47 từ bàn đạp Kopys tiến công phía Nam Orsha và hướng về Smolensk.
  • Quân đoàn xe tăng 46 tấn công từ bàn đạp Shklou.
  • Quân đoàn xe tăng 24 đã vượt sông Dnepr ở phía Nam Mogilev và chiếm được một đầu cầu tại Starogo Bykhov (Bykhov) gần làng Borkolabowo. Ngày 11 tháng 7, đơn vị này tiếp tục mở rộng đầu cầu đã chiếm được và kiểm soát đường bộ Gomel - Mogilev. Các chi đội phái đi trước của nó đã tiến theo hướng Propoisk (???) - Mogilev.

Cùng ngày, sư đoàn xe tăng 3 của tướng Otto Moritz Walter Model tìm cách phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài thành phố từ phía nam dọc theo xa lộ Mogilev - Bobruisk; nhưng sau 14 giờ công kích tại khu vực Buinichi, sư đoàn này đã bị đánh lui và bị đẩy lùi với tổn thất nặng trước trận địa phòng thủ của trung đoàn bộ binh 338, sư đoàn 172 do đại tá S. F. Kutepov chỉ huy với sự yểm hộ của pháo binh. Trên chiến trường, quân Đức bỏ lại 39 xác xe tăng và xe bọc thép. Trung đoàn 338 bị tổn thất rất lớn nhưng vẫn giữ được vị trí. Ngày 13 tháng 7, sư đoàn xe tăng 3 (Đức) mở lại cuộc tấn công vào sư đoàn bộ binh 172 nhưng vẫn bị chặn lại sau 10 giờ giao chiến.

Quân Liên Xô của Mặt trận miền Tây không có thời gian để chuẩn bị các vị trí phòng thủ. Khu vực Liozno và Rudnya do tập đoàn quân 19 của trung tướng I. V. Koniev phòng thủ có nguy cơ bị công kích khi tập đoàn quân 20 của tướng P. A. Kurochkin đã để mất các vị trí phòng thủ dày đặc trong khu vực Vitebsk và Orsha. Tại khu vực Smolensk là tuyến phòng thủ bậc thang thứ hai của Mặt trận miền Tây với các lực lượng mỏng yếu của tập đoàn quân 16 do Trung tướng M. F. Lukin chỉ huy. Với cách bố trí như trên, tuyến phòng ngự bị kéo dài và thiếu chiều sâu. Do thiếu sức kéo nên pháo binh Liên Xô khó cơ động đến các hướng quan trọng để yểm hộ cho bộ binh. Ngoài ra, do bị thiệt hại nặng nề trong các cuộc hội chiến biên giới trong khi hậu phương chưa hể cung cấp đủ, các tập đoàn quân của Phương diện quân Tây rất thiếu xe tăng có sư đoàn xe tăng chỉ còn 15 đến 20 chiếc xe tăng cũ. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tiếp tục đưa những lực lượng mới đến khu vực Smolensk. Sư đoàn xe tăng 17 thuộc quân đoàn xe tăng 47 (tập đoàn quân xe tăng 2) được điều từ Orsha tới khu vực phía nam Smolensk (Tư lệnh sư đoàn này, tướng C. von Weber đã bị thương trong cuộc chiến đấu ở phía đông Orsha). Trước đó, quân đội Xô Viết trong thành phố Smolensk vẫn phải đối phó với áp lực không ngừng tăng lên của các sư đoàn bộ binh 5 và 35 của quân đoàn bộ binh 5, tập đoàn quân 9 (Đức) đang tiến dọc theo đường cao tốc Smolensk-Vitebsk. Từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 7, các trận đánh ác liệt đã nổ ra tại Liozno và Rudnya.

Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô vẫn không từ bỏ hy vọng giải cứu các lực lượng bị bao vây trong khu vực Smolensk. Ngày 16 tháng 7, quân đoàn bộ binh 9 thuộc tập đoàn quân dã chiến 2 từ Orsha được điều đến hướng Smolensk. Sư đoàn bộ binh thứ 268 của quân đoàn này sau khi tiến dọc theo đường cao tốc Minsk-Moskva cùng với các sư đoàn 35 và 137 đã tiếp cận khu vực Smolensk tại bờ nam sông Dnepr với sự hỗ trợ của sư đoàn cơ giới 29. Trong vòng 3-4 ngày các đơn vị này đã bị tổn thất đến 850 người. Ngày 17 tháng 7, Thiếu tướng K. K. Rokossovsky được triệu tập đến Sở chỉ huy Phương diện quân Tây. Ông được giao việc tổ chức phòng thủ và phản công tại khu vực Yartsevo. Để giúp K. K. Rokossovsky thực hiện mệnh lệnh, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây chuyển thuộc cho ông sư đoàn xe tăng 101 do đại tá G. M. Mikhailov chỉ huy và một phần của sư đoàn bộ binh 38 do đại tá M. G. Kirillov chỉ huy vốn đã bị mất liên lạc với sở chỉ huy tập đoàn quân 19. Trước đó, K. K. Rokossovsky cũng đã được giao chỉ huy cụm cơ giới hỗn hợp của đại tá Alexander Ilich Lizyukov trong đội hình quân đoàn cơ giới 7 đang bảo vệ bến vượt sông Solovyevo.

Từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 7, cụm quân của K. K. Rokossovsky nhanh chóng tổ chức tiến công. Ngày 23 và 24, Phương diện quân Tây tổ chức cuộc chiến mở vây cho Smolensk diễn ra trên các hướng vào thành phố. Ngày 26 tháng 7, các sư đoàn xe tăng 7 và 20 thuộc quân đoàn xe tăng 39 và sư đoàn xe tăng 17 thuộc quân đoàn xe tăng 47 (Đức) bị đánh bật khỏi khu vực bến vượt Solovyevo qua sông Dnepr, phía Tây Yartsevo. Đêm 27 tháng 7, cụm quân của A. I. Lizyukov đã chiếm được bến phà và nối được liên lạc giữa cụm quân bị bao vây tại Smolensk với chủ lực Phương diện quân Tây. Cụm quân của Rokossovsky đã thành công trong việc kiềm chế các hoạt động phản kích của quân Đức.

Quân đội Liên Xô rút bỏ Smolensk

Đến cuối tháng 7 năm 1941, Tập đoàn quân Trung tâm điều động thêm quân đoàn bộ binh 8 (gồm các sư đoàn 8 và 28) từ lực lượng dự bị đến khu vực mặt trận. Trong khi đó, quân đội Liên Xô đã sử dụng hết các lực lượng dự bị được động viên trong mùa hè năm 1941 và chưa có quân tăng viện mới. Điều này cho phép quân đội Đức thu hẹp đáng kể khu vực quân đội Liên Xô bị vây trong cái chảo Smolensk. Ngày 28 tháng 7, quân Đức tấn công dữ dội vào cánh trái của cụm quân M. K. Lukin. Nguyên soái Liên Xô Timoshenko đã lập tức có phản ứng:

Bản báo cáo của Hội đồng quân sự phương diện quân Tây gửi Bộ Tổng tư lệnh tối cao ngày 31 tháng 7 phác họa những sự kiện như sau:

:"1- Tập đoàn quân 20 và cụm quân của tập đoàn quân 16 đã công kích liên tục nhưng không đến được phía đông Smolensk. Ngày 29 tháng 7, những sự kiện sau đây đã diễn ra: tập đoàn quân 20 bị nửa hợp vây và liên tục bị tập kích bởi 6 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn thiết giáp và nhiều máy bay của địch. Từ ngày 25 tháng 7, đối phương đã củng cố lại lực lượng tấn công bằng hai sư đoàn mới. Trong thời gian này, các tập đoàn quân 16 và 20 chịu những tổn thất rất lớn." :"Tập đoàn quân 20 sau khi thực hiện nhiều trận đột kích dữ dội đã phải rút lui về phía đông và đông bắc trước sức ép nặng nề của đối phương. Ngày 28 tháng 7, sư đoàn 73 thuộc tập đoàn quân 20 rút lui đã làm hở sườn của sư đoàn 152 thuộc tập đoàn quân 16 đang chiến đấu ở tuyến đầu phía Bắc Smolensk. Theo báo cáo ccủa M. F. Lukin, các sư đoàn 73 và 152 đã bị hỏa lực địch tấn công mạnh vào hai bên sườn và phía sau. Sư đoàn 152 đã phải rút về phía Đông Smolensk, sư đoàn 129 cũng rút lui về đông bắc Smolensk." :"2-Mệnh lệnh ngừng tiến công trên hướng Tây và phía trước đã bị Kurochkin hiểu thành mệnh lệnh rời bỏ Smolensk trong các đêm 28 và 29 tháng 7. Ngay lập tức, chúng tôi đã thu hồi mệnh lệnh của Kurochkin, đình chỉ việc rút các sư đoàn 152, 129 và khôi phục lại tình hình. Ngày 29 tháng 7, Phương diện quân đã ra lệnh cho Kurochkin phải bắt liên lạc và sử dụng lực lượng dự bị của tập đoàn quân 20 phối hợp với tập đoàn quân 16 để khôi phục lại tình hình ở Smolensk." :"3-Ngày 29 tháng 7, cuộc phản công được thực hiện bởi các sư đoàn 46, 73 và 152 đã không thành công. Các đơn vị bị tổn thất lớn và tối 30 tháng 7 đã phải rút về phía Đông Smolensk trên tuyến trên Sukhodol và Tokary.(???)" :"4-Lúc 3 giờ ngày 31 tháng 7, Kurochkin đã ra lệnh cho các lực lượng còn lại của các sư đoàn 152, 129 và 46 từ khu vực ngoại vi Sukhodol, Tokary (???) cơ động tấn công theo hướng Smolensk." Tướng Maximilian von Weichs, tư lệnh tập đoàn quân dã chiến 2 đã phải điều động quân đoàn 53 và một sư đoàn của quân đoàn 43 (tập đoàn quân dã chiến 2) được đưa đến Bobruisk để đối phó với các cuộc công kích của các quân đoàn bộ binh 63 và 66 của Liên Xô.

Ngày 16 tháng 7, sư đoàn cảnh vệ 52 do thiếu tướng - tiến sĩ Lothar Rendulic chỉ huy được Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân Trung tâm lấy từ lực lượng dự bị đã tấn công từ Mogilev đến Aziarany dọc theo bờ tây sông Drut. Quân đội Liên Xô bị đòn phản đột kích bất ngờ và sa lầy tại Bobruisk. Quân đoàn 43 (Đức) cũng chia cắt tuyến tấn công của quân đội Xô Viết tại Parycy và nhanh chóng chiếm lại toàn bộ khu vực Parycy. Quân đoàn bộ binh 12 (Đức) cũng đẩy lùi các cuộc tấn công của quân đoàn bộ binh 67 (Liên Xô).

Tuy nhiên, quân đội Đức vẫn làm chủ tình hình và nhanh chóng chặn đứng đòn công kích của quân đội Liên Xô. Ngày 26 tháng 7 các lực lượng cơ bản của quân đoàn 67 (Liên Xô) bị bao vây tại Mogilev phải rút khỏi thành phố trong tình trạng mất sức chiến đấu. Ngày 30 tháng 7, sau các trận giao chiến ác liệt và bị thiệt hại lớn, tập đoàn quân 21 (Liên Xô) đã được lệnh rút về tuyến phòng thủ cũ. Tư lệnh quân đoàn 63, tướng L. G. Petrovsky chỉ huy tử trận. Cụm kỵ binh Liên Xô của đại tá Batskalevich bị chia cắt với chủ lực phương diện quân và phải ở lại chiến đấu ở trong vùng quân Đức bao vây. Phần lớn quân số của cụm quân đã bị đánh tan tại các cánh rừng trong khu vực Glusk. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tung ra 9 sư đoàn để đối phó với tập đoàn quân 28 (Liên Xô) đang tấn công trên hướng Roslavl - Smolensk. Sư đoàn xe tăng 46 đã đánh chiếm Roslavl và cùng với 5 sư đoàn bộ binh vây bọc tập đoàn quân 28. Chỉ có một số nhóm nhỏ sĩ quân và binh sĩ của tập đoàn quân 28 thoát vây. Tư lệnh tập đoàn quân, tướng V. Ya. Kachalov tử trận.

Trong khi Phương diện quân Tây đang chuẩn bị tấn công thì ngày 30 tháng 8, Phương diện quân Dự bị đã tung ra đòn phản kích và đánh bại quân Đức trong khu vực Yelnya. (xem Chiến dịch Yelnya).

Tuy nhiên, các đòn tấn công của quân đội Liên Xô không đủ mạnh để phá vỡ tuyến phòng thủ của quân Đức. Các lực lượng dự bị lẽ ra dành cho chiến dịch phản công thì lại bị hút vào nhiệm vụ giải vây cho tập đoàn quân 22 và củng cố phòng ngự của tập đoàn quân 29 ở phía Bắc đang bị tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) uy hiếp. Ngày 5 tháng 9 các tập đoàn quân 20 và 30 được lệnh rút về tuyến phòng ngự ban đầu. Ngày 10 tháng 9 năm 1941, Phương diện quân miền Tây báo cáo về Đại bản doanh và được chấp thuận đình chỉ cuộc tiến công.

Kết quả các trận đánh

Sau một tháng chiến đấu, hai bên đều chịu những thiệt hại nặng về người và phương tiện. Phía Liên Xô thu được kết quả quân sự khá khiêm tốn, tập đoàn quân 30 chỉ chiếm được thị trấn nhỏ Baturino, còn tập đoàn quân 16 phải dừng lại trước cửa ngõ Yartsevo. Theo Lev Nikolaievich Lopukhov, từ ngày 1 tháng 8 đến ngày 10 tháng 9, chỉ riêng tập đoàn quân 19 (Liên Xô) đã có 45.000 người bị loại khỏi vòng chiến đấu. Quân đoàn bộ binh 8 (Đức) mất 7.000 người, sư đoàn cơ giới 14 (Đức) mất 2.250 người, sư đoàn xe tăng 7 (Đức) mất khoảng 1.000 người. Tỷ lệ tổn thất 4,4/1 có lợi cho quân Đức.

Ngày 11 tháng 9, trung tướng I. S. Koniev, tư lệnh tập đoàn quân 19 được thăng cấp bậc thượng tướng. Ngày 12 tháng 9, I. S. Koniev được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phương diện quân Tây thay Nguyên soái S. K. Timoshenko được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh hướng Tây Nam mặt trận Xô-Đức. Tại khu vực Dukhovshchina đã hình thành một bàn đạp nguy hiểm cho cuộc tổng tấn công của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) vào Moskva mùa đông năm 1941 theo kế hoạch "Typhoon".

Đánh giá kết quả và những ảnh hưởng

Đánh giá kết quả

Các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã trong chiến dịch Smolensk đã mất đi tính đồng bộ và không còn sự phối hợp chặt chẽ như các cuộc hội chiến trên vùng biên giới phía Tây Liên Xô trước đó hai tháng. Đội hình các tập đoàn quân bộ binh của quân đội Đức Quốc xã đã tụt lại sau các tập đoàn quân xe tăng từ 100 đến 200 km. Ở phía Nam Smolensk, trong một cuộc điều binh không theo quy tắc, tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) của tướng Guderian đã bất ngờ tung một đòn đột kích vào các lực lượng Liên Xô ở khu vực sông Dnepr và nhanh chóng triển khai tấn công đánh chiếm thành phố ngay trong ngày 16 tháng 7 năm 1941. Ba tập đoàn quân 16 (thiếu), 19 và 20 của quân đội Liên Xô đứng trước nguy cơ bị quân Đức bao vây ở Smolensk. Trong khi đó, trên cánh phía Bắc, tốc độ tiến quân của tập đoàn quân xe tăng 3 do tướng Hermann Hoth bị chậm trên vùng đầm lầy đang có mưa lớn. Mặt khác, quân đội Liên Xô tại khu vực này đã liên tục phản kích hết sức quyết liệt vào hai bên sườn các quân đoàn cơ giới Đức đang kéo thành một tuyến dài dọc xa lộ Minsk - Smolensk, cố gắng ngăn không cho quân Đức hình thành vòng vây tại Smolensk. Vào ngày 18 tháng 7 năm 1941, các gọng kìm của hai tập đoàn quân xe tăng Đức chỉ còn cách nhau chừng 10 km. Nhưng họ đã phải mất đến 8 ngày mới hoàn tất cái khoảng cách 10 km đó và hình thành vòng vây với các lực lượng Xô Viết tại Smolensk. Và quân Đức phải mất thêm 10 ngày nữa để thanh toán lực lượng Liên Xô trong vòng vây này. Sau trận Smolensk, mặc dù có 25 vạn sĩ quan và binh sĩ quân đội Liên Xô đã bị quân Đức bắt làm tù binh, nhưng vẫn có đến hơn 20 vạn người khác đột phá thoát khỏi vòng vây của quân Đức. Trận bao vây tiêu diệt của quân Đức tại Smolensk chỉ thành công một nửa.

Chiến dịch phản công Smolensk đem lại cho quân đội Liên Xô nhiều thiệt hại hơn về người và phương tiện so với quân đội Đức Quốc xã. Theo nguyên soái Liên Xô A. M. Vasilevsky, đây là cái giá cực đắt cho những bài học lớn. Lần đầu tiên, quân đội Đức Quốc xã vấp phải một trận phản công lớn nhất của đối phương kể từ đầu cuộc chiến, diễn ra trên không gian rộng lớn có chính diện lên đến hơn 600 km và chiều sâu hơn 250 km. Sự có mặt của 7 tập đoàn quân Liên Xô trên khu vực giữa mặt trận sau những thiệt hại lớn của họ trong các cuộc hội chiến biên giới là điều rất bất ngờ đối với các cấp chỉ huy của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức). Mặc dù chiếm ưu thế về binh lực (đặc biệt là xe tăng) nhưng Cụm tập đoàn quân Trung tâm vẫn chịu thiệt hại lớn với 250.000 sĩ quan và binh sĩ chết và bị thương, hơn 300 xe tăng và xe bọc thép bị phá huỷ. Trong đó, chỉ riêng tại khu vực Smolensk đã có 101.000 người chết, 20.000 người bị thương.

Ảnh hưởng chiến lược

Đối với quân đội Liên Xô

Giai đoạn từ [[tháng tám|tháng 8 - tháng 12 năm 1941]] Chiến dịch phản công Smolensk của quân đội Liên Xô có vị trí đặc biệt quan trọng trên mặt trận trung tâm của chiến trường Xô-Đức trong thời kỳ đầu cuộc chiến tranh Xô-Đức. Mặc dù không thực hiện được ý đồ đánh tan Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức nhưng quân đội Liên Xô đã làm tiêu hao nặng các cánh quân xung kích của cụm quân này. Cùng với các cuộc phản công khác của quân đội Liên Xô trên hai cánh Bắc và Nam của mặt trận Xô-Đức đe dọa hai bên sườn Cụm tập đoàn quân Trung tâm, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã phải chuyển cụm quân này sang phòng ngự một thời gian để thanh toán các mối đe dọa từ hai bên sườn do các Phương diện quân Tây Bắc và Tây Nam của Liên Xô đang uy hiếp. Do đó, kế hoạch tác chiến vượt qua Smolensk một cách nhanh chóng để đánh chiếm Moskva trong hành tiến cũng bị phá sản. Quân đội Liên Xô có thêm thời gian để xây dựng các lực lượng dự bị và củng cố phòng thủ trên hướng Moskva.

Các đợt tấn công của Phương diện quân Tây (Liên Xô) vào các binh đoàn Đức đều không thu được kết quả có tính chiến lược. Nguyên nhân đầu tiên thuộc về Bộ Tổng tư lệnh tối cao và Bộ Tư lệnh phương diện quân Tây do không nắm rõ tình hình đối phương đã thường xuyên ra các chỉ thị yêu cầu tiếp tục tấn công, bất chấp việc các đơn vị này đã chiến đấu lâu ngày, mệt mỏi, thậm chí có đơn vị vừa thoát vây trở về, không được nghỉ ngơi và bổ sung đã được ném ngay trở lại mặt trận. Các đợt tấn công của Hồng quân được chuẩn bị một cách vội vã, công tác hậu cần yếu kém, không nắm rõ thông tin tình hình đối phương, không chuẩn bị đủ lực lượng để tạo sức mạnh đột phá trên các hướng chủ yếu và do đó, không đạt được kết quả cuối cùng.

Trong giai đoạn cuối của trận Smolensk và sau chiến dịch Yelnya đã xuất hiện một danh hiệu mới được phong tặng cho các đơn vị chiến đấu đặc biệt xuất sắc của quân đội Liên Xô: danh hiệu "Đơn vị cận vệ", "Sĩ quan cận vệ" và "Chiến sĩ cận vệ". Mùa thu năm 1941, thừa ủy quyền của Xô viết tối cao Liên Xô, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô ra sắc lệnh số 308 ngày 18 tháng 9 năm 1941 phong tặng danh hiệu "Cận vệ" cho các đơn vị, cá nhân sĩ quan, binh sĩ đã có những hành động anh hùng, biểu lộ lòng dũng cảm và tài năng quân sự "trong chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc". Bốn sư đoàn bộ binh 100, 127, 153 và 161 đã được phong danh hiệu này và được đổi tên lần lượt như sau: Sư đoàn bộ binh 100 thành Sư đoàn bộ binh cận vệ 1, Sư đoàn bộ binh 127 thành sư đoàn bộ binh cận vệ 2, sư đoàn bộ binh 153 thành sư đoàn bộ binh cận vệ 3, sư đoàn bộ binh 161 thành sư đoàn bộ binh cận vệ 4

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Smolensk** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Trận Białystok – Minsk** là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 13 tháng 1: Binh biến Đô Lương. * 28 tháng 1: Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. ### Tháng 2
**Trận Raseiniai** (23–27 tháng 6 năm 1941) là một trận đấu xe tăng diễn ra giữa Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của quân phát xít Đức với hai Quân đoàn cơ giới của
Chiến sự trên **Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Phương diện quân Tây** (tiếng Nga: _Западный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây là một trong những phương diện quân chủ
**Phương diện quân Dự bị** (tiếng Nga: _Резервный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, tác chiến phòng thủ trên hướng Tây Moskva
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến dịch Yelnya** (30 tháng 8 – 8 tháng 9 năm 1941) là một chiến dịch phản công của quân đội Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã trong thời gian chiến dịch
**Ivan Vasilyevich Selivanov** (__; 19 tháng 11 (lịch cũ: 7 tháng 11) năm 1886 - 23 tháng 2 năm 1942) là một chỉ huy kỵ binh Nga và Liên Xô, từng tham gia Nội chiến
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Chiến dịch Mogilev** (23 tháng 6 - 28 tháng 6 năm 1944) là một trận tấn công của quân đội Liên Xô nhằm vào quân đội Đức Quốc xã, diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức
**Konstantin Dmitryevich Golubev** (tiếng Nga: **Константи́н Дми́триевич Го́лубев**; 27 tháng 3 năm 1896 - 9 tháng 6 năm 1956) là một tướng lĩnh và chỉ huy quân đội Liên Xô. Ông sinh ra ở Petrovsk,
**Chiến dịch phản công Rzhev-Vyazma năm 1942** (8 tháng 1 - 28 tháng 2 năm 1942) là một chiến dịch bộ phận trong Cuộc phản công chiến lược đầu năm 1942 của quân đội Liên
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
phải|thumb|Quân X đang bị quân V bao vây trên một khu vực. **Bao vây** là một thuật ngữ quân sự, chỉ tình hình khi một lực lượng quân sự tại một vị trí bị cô
**Tập đoàn quân 30** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong những năm 1941-1943. Nó được tái tổ chức thành Tập đoàn
**Tập đoàn quân 29** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô và sau này là Lực lượng Mặt đất của Nga. ## Lịch sử Tập
**Mặt trận Các tập đoàn quân dự bị** (tiếng Nga: _Фронт резервных армий_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô vào đầu Thế chiến thứ hai. ## Hình thành
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch phản công Mozhaysk-Vyazma** có tên mã **Chiến dịch "Sao Mộc"** (10 tháng 1 - 31 tháng 3 năm 1942) là chiến dịch bộ phận trong Cuộc phản công chiến lược đầu năm 1942
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch tấn công Yelnia–Dorogobuzh** là hoạt động quân sự mở đầu cho giai đoạn 2 của Chiến dịch Smolensk (1943). Từ ngày 28 tháng 8 đến ngày 16 tháng 9 năm 1943, Phương diện
**Tập đoàn quân 28** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Hình thành ba lần trong giai đoạn 1941-1942, đơn vị này hoạt động tích
**Phương diện quân Trung tâm** (tiếng Nga: _Центральный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Yakov Grigoryevich Kreyzer** (; 4 tháng 11 năm 1905, Voronezh - 29 tháng 11 năm 1969, Moskva) là một tướng lĩnh chỉ huy cấp tập đoàn quân của Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Yakov Iosifovich Dzhugashvili** (tên khai sinh: **Iakob Iosebis dze Jughashvili**; - 14 tháng 4 năm 1943) là con trai của Iosif Stalin và người vợ đầu, Kato Svanidze. Stalin, khi đó là một nhà cách
**Vasily Nikolayevich Gordov** (; 12 tháng 12 năm 1896 - 24 tháng 8 năm 1950) là một Thượng tướng Quân đội Liên Xô và Anh hùng Liên Xô. Ông từng giữ chức Tư lệnh Phương
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tầm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông trong Đế chế Thứ Ba vạch ra. Nằm trong chiến lược
**Chiến dịch tấn công Rzhev-Vyazma** lần thứ hai là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm vào quân đội Đức Quốc xã từ ngày 2 tháng 3 đến 31
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**Tập đoàn quân 3** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Chiến