✨Chiến tranh Đông La Mã-Bulgaria

Chiến tranh Đông La Mã-Bulgaria

Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế kỷ thứ 5 và tăng cường với việc mở rộng Đế chế Bungari về phía tây nam sau năm 680. Đông La Mã và Bulgaria tiếp tục xung đột trong thế kỷ sau đó, cho đến khi Bulgaria, dưới sự lãnh đạo của Krum, đã gây ra một loạt các thất bại cho Đế chế Đông La Mã. Sau khi Krum qua đời năm 814, Omurtag, con trai ông đàm phán một hiệp ước hòa bình ba mươi năm. Năm 893, trong cuộc chiến lớn tiếp theo, Simeon I, Hoàng đế Bungaria đã đánh bại Đông La Mã, trong khi cố gắng hình thành một đế quốc lớn ở phía Đông châu Âu, nhưng những nỗ lực của ông đã không thành công.

Trong năm 971 Ioannes I Tzimiskes, Hoàng đế Đông La Mã, chinh phục nhiều vùng đất của đế quốc Bungari bằng cách đánh bại vua Boris II và chiếm được Preslav, Thủ đô của Bungaria. Constantinopolis dưới sự lãnh đạo của Basil II chinh phục hoàn toàn Bulgaria trong năm 1018 như là kết quả của Trận Kleidion năm 1014. Có những cuộc nổi loạn chống lại chế Byzantine từ năm 1040-1041 cũng như trong thập kỷ 1070 và thập kỷ 1080, nhưng không thành công. Tuy nhiên năm 1185, Peter Theodore và Ivan Asen bắt đầu một cuộc nổi dậy và Đế chế Byzantine đang suy yếu vì phải đối mặt với những khó khăn nội bộ trong triều đình của riêng họ, đã không thể ngăn chặn các cuộc nổi dậy thành công.

Sau khi quân Thập tự chinh thứ tư chiếm Constantinopolis vào năm 1204, Kaloyan, Hoàng đế Bungari, đã cố gắng thiết lập quan hệ thân thiện với thập tự quân, nhưng Đế quốc Latin mới được tạo lập đã từ chối bất kỳ đề nghị liên minh nào với Bulgaria. Do vậy, Kaloyan đã liên minh với Nicaea, một trong những quốc gia do người Đông La Mã tạo ra sau sự sụp đổ của Constantinople, và sự kiện này đã làm giảm sức mạnh của thập tự quân trong khu vực. Mặc dù Boril, cháu trai của ông liên minh với đế quốc Latinh, những người thừa kế của Boril vẫn liên minh với Nicaea, mặc dù có một vài cuộc va chạm vẫn tiếp diễn từ hai phía. Sau khi Đế quốc La tinh sụp đổ, Byzantine lợi dụng một cuộc nội chiến của Bungary đã chiếm giữ một phần của Thrace, nhưng hoàng đế Bungari Theodore Svetoslav đã chiếm lại những vùng đất này. Các mối quan hệ Đông La Mã-Bungaria tiếp tục biến động cho đến khi Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt Đế chế Bungaria vào năm 1422 và Đế chế Đông La Mã vào năm 1453.

Cuộc chiến của Asparukh

Cuộc đụng độ đầu tiên Đông La Mã và Bulgaria khi Asparukh, con trai út của Hãn Kubrat di chuyển về phía tây, chiếm phía Nam Bessarabia ngày nay. Asparukh đánh bại Đông La Mã dưới sự chỉ huy của Konstantinos IV, người đang chỉ huy một chiến dịch thủy bộ kết hợp để chống lại những kẻ xâm lược và bao vây doanh trại kiên cố của họ ở Ongala. Đau ốm từ sức khỏe kém, hoàng đế đã phải rời khỏi quân đội, làm cho chính nó bị hoảng loạn và bị đánh bại bởi người Bulgaria. Năm 681, Konstantinos đã buộc phải thừa nhận vương quốc Bulgar ở Moesia và phải trả tiền bảo vệ để tránh sự xâm nhập sâu hơn vào Thrace của Đông La Mã. Tám năm sau, Asparukh dẫn đầu một chiến dịch thành công vào Thrace của Đông La Mã.

Cuộc chiến của Tervel

Tervel, lần đầu tiên được đề cập trong các văn bản của Đông La Mã ở năm 704, khi hoàng đế Đông La Mã bị lật đổ Justinianus II đến với ông và yêu cầu trợ giúp của ông, hỗ trợ Justinianus trong nỗ lực khôi phục ngai vàng Đông La Mã để đổi lấy tình hữu nghị, quà tặng và con gái của ông trong hôn nhân. Với một đội quân 15.000 lính kỵ binh cung cấp bởi Tervel, Justinianus đột nhiên tiến về phía Constantinopolis và cố gắng chiếm được lối vào thành phố trong 705. Vị hoàng đế vừa mới phục hồi ngay lập tức hành quyết những kẻ hất cẳng mình, các hoàng đế Leontios và Tiberios III, cng với nhiều người ủng hộ họ. Justinianus trao cho Tervel nhiều quà tặng, và danh hiệu kaisar (Caesar), làm cho ông ta chỉ là hoàng đế đứng thứ hai và nguyên thủ nước ngoài đầu tiên trong lịch sử Byzantine nhận một như vậy và có thể là một nhượng bộ lãnh thổ Thrace ở phía đông bắc, một khu vực được gọi là Zagore. Việc Anastasia, con gái của Justinianus có kết hôn với Tervel như đã được sắp xếp hay không là điều không ai được biết.

Chỉ 3 năm sau, chính Justinianus II đã vi phạm thỏa thuận này và dường như bắt đầu các hoạt động quân sự để khôi phục lại vùng đã nhượng cho Tervel. Tervel đã đánh bại ông ta tại Trận Anchialus (Hoặc Ankhialo) trong năm 708. Năm 711, phải đối mặt với một cuộc nổi loạn nghiêm trọng ở Tiểu Á, Justinianus một lần nữa tìm kiếm sự trợ giúp của Tervel, nhưng chỉ nhận được hỗ trợ nhỏ thể hiện ở một đội quân chỉ 3.000 người. Rõ ràng bị tràn ngập về số lượng bởi vị hoàng đế nổi loạn Philippicus, Justinian đã bị bắt và bị hành quyết, trong khi đồng minh Bulgar của ông được phép rút lui về đất nước của họ. Tervel đã lợi dụng sự rối loạn ở Đông La Mã để đột kích vào Thrace tại năm 712 và cướp bóc tới tận các vùng lân cận của Constantinopolis.

Theo thông tin cuốn sách sử Imennik, Tervel chết trong năm 715. Tuy nhiên, nhà sử gia Đông La Mã Theophanes Người thú tội cho rằng Tervel có một vai trò trong nỗ lực để khôi phục lại Hoàng đế bị phế truất Anastasius II trong năm 718 hoặc 719. Nếu Tervel có thể sống đến thời gian này, ông sẽ là nhà lãnh đạo Bungaria, người đã ký một hiệp ước mới (xác nhận nộp cống hàng năm của Đông La Mã cho Bulgaria, các nhượng bộ lãnh thổ ở Thrace, điều chỉnh các quan hệ thương mại và các biện pháp xử lý người tị nạn chính trị) với Hoàng đế Theodosius III tại năm 716 và cũng là vua người Bungaria đã giúp đỡ để phá hủy cuộc bao vây Constantinopolis lần thứ hai của người Ả Rập trong năm 717-718. Theo Theophanes, người Bulgar đã tàn sát khoảng 22.000 người Ả Rập trong trận chiến trước Constantinoplolis.

Cuộc chiến của Konsantantinos V

Sau cái chết của vua Sevar, Bulgaria rơi vào một thời gian dài khủng hoảng và tình trạng bất ổn, trong khi Đông La Mã hợp nhất lại được các vùng đất của họ. Giữa năm 756 và 775, hoàng đế mới của Đông La Mã Konstantinos V dẫn chín chiến dịch chống lại quốc gia láng giềng phía bắc của mình để thiết lập một biên giới Đông La Mã tại sông Donau. Do sự thay đổi liên tục của các vị vua (8 hãn đã lên ngôi trong vòng 20 năm) và cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài, Bulgaria đang trên bờ vực của sự hủy diệt.

Trong chiến dịch đầu tiên của mình ở 756, Konstantinos V đã thành công và cố gắng đánh bại người Bulgaria hai lần nữa, nhưng trong năm 759, Vinekh, Hãn Bungaria, đã đánh bại quân đội Đông La Mã một cách toàn diện trong trận Đèo Rishki. Vinekh sau đó tìm cách giảng hòa với người Đông La Mã, nhưng ông bị ám sát bởi các quý tộc Bungaria. Nhà lãnh đạo mới, Telets, đã bị đánh bại tại trận Anchialus trong năm 763. Trong các chiến dịch tiếp theo của họ, cả hai bên không thể đạt được bất kỳ thành công đáng kể, bởi vì người Byzantine không thể vượt qua dãy núi Balkan và hạm đội của họ đã bị phá hủy hai lần trong một cơn bão lớn (2.600 tàu thuyền bị chìm trong một trong những cơn bão trong năm 765). Năm 774, họ đánh bại một lực lượng Bungaria ít hơn nhiều tại Berzitia nhưng đây là thành công cuối cùng của Konstantinos V: như là kết quả của sự thất bại của họ, Bulgaria đã biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để thoát khỏi những điệp viên Đông La Mã ở Pliska. Hãn Telerig đã gửi một sứ giả bí mật đến Konstantinos V, cho thấy ý định của mình là chạy trốn khỏi Bulgaria và tìm nơi ẩn náu ở chỗ hoàng đế và tìm kiếm sự đảm bảo hiếu khách. Telerig đã thành công trong việc làm cho hoàng đế phản bội lại điệp viên của mình tại Bulgaria, những người đã bị bắt giữ và hành hình. Các dự án trả đũa của Đông La Mã không thực hiện được vì Konstantinos V chết trong năm 775.

Các hành động trả đũa thất bại của Konstantinos VI

Năm 791, hoàng đế Đông La Mã, Konstantinos VI bắt tay vào một cuộc chinh phạt chống lại người Bulgaria, để trả đũa cho cuộc tấn của Bungari vào thung lũng Struma từ 789. Kardam đoán trước được cuộc xâm lược của Byzantine và gặp kẻ thù gần Adrianople tại Thrace. Quân đội Đông La Mã đã bị đánh bại và bỏ chạy.

Năm 792, Konstantinos VI lại dẫn một đội quân chống lại người Bulgaria và đóng trại tại Marcellae, gần Karnobat, nơi ông tiến hành củng cố phòng thủ. Kardam đến với quân đội của mình vào ngày 20 và chiếm đóng các cao điểm lân cận. Sau một thời gian trôi qua sau khi hai đội quân dàn trận, Konstantinos VI đã ra lệnh tấn công, nhưng kết quả của trận Marcellae là quân đội Byzantine lại một lần nữa bị vỡ trận và bị đánh bại rồi chuyển sang bỏ chạy. Kardam chiếm được lều và bắt được những người hầu của hoàng đế. Sau khi trở về Constantinopolis, Konstantinos VI đã ký một hiệp ước hòa bình và chấp nhận nộp cống hàng năm cho người Bulgaria.

Vào năm 796, triều đình Đông La Mã cứng đầu không chịu cống nộp và Kardam thấy cần thiết phải đòi triều cống và đe dọa tàn phá Thrace nếu Đông La Mã không trả tiền. Theo nhà sử gia Theophanes, Konstantinos VI đã chế giễu nội dung của bức thư và thay vì gửi vàng ông ta lại hứa hẹn sẽ dẫn đầu một đội quân mới để chống lại vua Kardam lúc này đã cao tuổi tại Marcellae. Một lần nữa quân đội của hoàng đế lại tiến lên phía Bắc và một lần nữa nó lại gặp quân đội của Kardam trong vùng lân cận của Adrianopolis. Các đội quân đối mặt với nhau trong 17 ngày mà không lao vào trận chiến, trong khi hai quốc vương tham gia vào các cuộc đàm phán. Cuối cùng, xung đột đã được ngăn chặn và hòa bình lại tiếp tục với các điều khoản giống như trong năm 792.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế
Các **cuộc chiến tranh Đông La Mã - Ottoman** là một loạt các cuộc xung đột mang tính quyết định giữa một quốc gia mới nổi của người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và một Đế
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba
Đông nam châu Âu những năm 1000. Cuộc chiến giữa Đông La Mã và Bulgaria đang trong giai đoạn gay cấn nhất. Lúc này, đông Bulgaria nằm dưới sự cai trị của người Bulgaria. **Trận
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Konstantinos V** (718 – 775) (; kẻ thù hay phỉ báng là _Kopronymos_ hoặc _Copronymus_, nghĩa là _nỗi ô nhục_); là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 741 đến 775. ## Tiểu sử ###
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
nhỏ|Đoạn mô tả về cuộc [[Vây hãm Chandax|vây hãm thành Chandax của Phokas, mùa đông năm 960-961]] **Nikephoros II Phokas** (, _Nikēphoros II Phōkas_) (khoảng 912 – 10–11 tháng 12, 969) là Hoàng đế Đông
**Chiến tranh Balkan lần thứ nhất** (8 tháng 10 năm 1912 – 30 tháng 3 năm 1913) là cuộc chiến giữa Liên minh Balkan (bao gồm Serbia, Hy Lạp, Montenegro và Bulgaria) và Đế quốc
**Isaakios II Angelos** (, _Isaakios II Angelos_; Tháng 9, 1156 – Tháng 1, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1185 đến 1195, và một lần nữa từ năm 1203 đến 1204. Cha ông
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Nikephoros I** hoặc **Nicephorus I**, còn là _Logothetes_ hay _Genikos_ (, _Nikēphoros I_, "Người đem lại Chiến thắng"; ? – 26 tháng 7, 811) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 802 đến năm
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Ioannes I Tzimiskes** (, _Iōannēs I Tzimiskēs_; khoảng 925 – 10 tháng 1, 976) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 12 năm 969 đến ngày 10 tháng 1 năm 976. Là một
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
nhỏ|Các vua Basíleios II và [[Constantinus VIII, giữ Thập tự giá. Nomisma histamenon.]] **Basíleios II** (; 958 – 15 tháng 12 năm 1025), còn gọi là **Basíleios Porphyrogenitus** (), hoặc **Basíleios Trẻ** () để phân biệt với ông
**Mikhael IX Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (, _Mikhaēl IX Palaiologos_), (17 tháng 4, 1277 – 12 tháng 10, 1320), trị vì như là đồng Hoàng đế Đông La Mã với đế hiệu chính thức vào năm
**Konstantinos IV** (, ), (652 – 685), đôi lúc còn gọi sai là _Pogonatos_ nghĩa là "Có Râu", để khỏi nhầm lẫn với phụ hoàng, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 668 đến
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Mikhael IV xứ Paphlagonia** (, _Mikhaēl ho Paphlagōn_; 1010 – 10 tháng 12, 1041) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 4 năm 1034 cho tới khi mất vào ngày 10 tháng
**Mikhael I Rhangabe** (, _Mikhaēl I Rhangabe_; _khoảng_ 770 – 11 tháng 1, 844) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 811 đến năm 813. Mikhael là con trai của nhà quý tộc (_patrikios_)
**Konstantinos VI** (, _Kōnstantinos VI_; 14 tháng 1, 771 – trước 805) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 780 đến 797. ## Nhiếp chính Konstantinos VI là con trai duy nhất của Hoàng
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế
**Ioannes II Komnenos** (, _Iōannēs II Komnēnos_; 13 tháng 9, 1087 – 8 tháng 4, 1143) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1118 đến năm 1143. Còn gọi là "Ioannes Hiền minh" hay "Ioannes Nhân
**Andronikos III Palaiologos**, Latinh hóa **Andronicus III Palaeologus** (; 25 tháng 3, 1297 – 15 tháng 6, 1341) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1328 đến 1341, sau khi trở thành đối thủ
**Bồi thường chiến tranh** là các khoản thanh toán bồi thường được thực hiện sau một cuộc chiến bởi bên thua trận đối với bên thắng trận. Chúng được dự định để trang trải thiệt
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1940. ## Tháng 1 năm 1940 :1: 10.000 quân Nhật mở cuộc phản công
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
**Chiến tranh giành độc lập România** là tên gọi được ngành sử học România sử dụng để nhắc đến cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877-1878), sau đó kéo theo România chiến đấu bên phía
**Ioannes VII Palaiologos** (hoặc **Palaeologus**) (Hy Lạp: Ιωάννης Ζ' Παλαιολόγος, _Iōannēs VII Palaiologos_) (1370 – 22 tháng 9, 1408) là Hoàng đế Đông La Mã trị vị được 5 tháng vào năm 1390. ## Tiểu
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Chiến dịch Balkan** () là các cuộc tấn công của Phe Trục nhằm vào hai vương quốc Hy Lạp và Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch bắt đầu với cuộc
**Trận Lalakaon** (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Λαλακάοντος) hoặc còn gọi là **Trận Poson** (hoặc **Porson**) (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Πό(ρ)σωνος)) diễn ra vào năm 863 giữa Đế quốc Đông La Mã và một
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử