Konstantinos V (718 – 775) (; kẻ thù hay phỉ báng là Kopronymos hoặc Copronymus, nghĩa là nỗi ô nhục); là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 741 đến 775.
Tiểu sử
Thiếu thời
Konstantinos được sinh ra ở Constantinopolis, là thế tử của Hoàng đế Leon III và Hoàng hậu Maria. Vào tháng 8 năm 720 ông cùng đồng trị vì với phụ hoàng và kết hôn với Tzitzak, con gái của khả hãn Bihar xứ Khazar. Cô dâu mới được rửa tội thành Irene (Eirēnē, "hòa bình") vào năm 732. Konstantinos V lên ngôi hoàng đế duy nhất vào ngày 18 tháng 6 năm 741.
Dẹp loạn Artabasdos
Tháng 6 năm 741 hoặc 742, trong khi Konstantinos dẫn quân vượt qua Tiểu Á để tiến hành chiến dịch ở biên giới phía đông nhằm chống lại Umayyad Caliphate dưới thời Hisham ibn Abd al-Malik, thì đột nhiên bị quân của người anh rể Artabasdos tấn công. Artabasdos là strategos của thema Armenia. Konstantinos bị đánh bại ngay tức khắc và vội vàng tìm nơi trú ẩn ở Amorium để tránh sự truy đuổi, trong khi Artabasdos ung dung tiến về Constantinopolis đoạt lấy ngôi vị Hoàng đế. Tuy bị mất ngôi vị nhưng Konstantinos vẫn nhận được sự ủng hộ từ thema Anatolic và Thracesian; Artabasdos thì được sự ủng hộ vững chắc từ các thema Thracia và Opsikion, ngoài đám lính Armenia của mình.
Các hoàng đế thù nghịch đang chờ đợi cơ hội trong thời gian chuẩn bị quân sự. Artabasdos hành quân tiến đánh Konstantinos vào tháng 5 năm 743 nhưng đại bại. Ba tháng sau Konstantinos đánh bại người con của Artabasdos là Niketas và hướng về Constantinopolis. Vào đầu tháng 11 năm 743 Hoàng đế được dân chúng chào đón vào thủ đô và ngay lập tức loại bỏ các đối thủ của mình bằng cách chọc mù mắt hay xử trảm. Sự soán ngôi của Artabasdos được kết nối với sự khôi phục lại việc tôn kính các ảnh tượng, có lẽ đã dẫn Konstantinos trở thành một kẻ đả phá tín ngưỡng thậm chí còn nhiệt thành hơn cả phụ hoàng. Kẻ thù của Konstantinos cũng phải thừa nhận về vấn đề cực kỳ cảm xúc này, những người thờ thánh tượng đã gán cho ông cái tên đầy khinh miệt Kopronymos ("cái tên ô uế", từ kopros, có nghĩa là "phân" hay "phân động vật", và onoma nghĩa là "tên gọi"). Sử dụng cái tên bẩn thỉu này, họ truyền bá tin đồn đó kiểu như khi là một đứa trẻ sơ sinh mà ông đã giũ sạch trong bình đựng nước rửa tội của mình, hoặc miếng vải màu tím hoàng gia dùng để quấn tã vị hoàng đế lúc mới sinh.
Bài trừ thánh tượng
Vào tháng 2 năm 754, Konstantinos cho triệu tập một công đồng ở Hieria với sự tham dự của toàn bộ giám mục chủ trương bài trừ thánh tượng. Công đồng đã tán thành chính sách tôn giáo của Konstantinos và bảo đảm cuộc bầu cử chọn ra một vị thượng phụ bài trừ thánh tượng mới, nhưng từ chối tuân theo tất cả các quan điểm của Hoàng đế. Công đồng xác nhận thân thế của Đức Mẹ Maria là Theotokos hay Mẹ của Chúa, nhằm tăng cường việc sử dụng thuật ngữ "Đức Thánh" và "Thánh Thần" như một sự hòa quyện và lên án sự mạo phạm, đốt cháy, hoặc cướp bóc của Giáo hội trong việc tìm cách ngăn chặn cơn bài trừ thánh tượng.
Tiếp theo sau đó là một chiến dịch được tiến hành để loại bỏ hình ảnh từ các bức tường của nhà thờ và nhằm thanh lọc triều đình và quan lại của phe bài trừ thánh tượng. Kể từ khi các tu viện có xu hướng trở thành những thành trì của cảm tình thờ thánh tượng, Konstantinos đặc biệt nhắm vào giới tu sĩ, ghép đôi và buộc họ phải kết hôn với nữ tu ở Hippodrome và chiếm đoạt tài sản tu viện vì lợi ích của nhà nước hoặc quân đội. Cuộc đàn áp giới tu sĩ (đỉnh điểm vào năm 766) chủ yếu dưới sự chỉ huy của tướng Mikhael Lachanodrakon với lời đe dọa sẽ chọc mù mắt hoặc lưu đày nếu họ dám phản kháng. Một trưởng tu viện phái thờ thánh tượng là Stephen Neos đã bị một đám đông hành hình dã man theo lệnh của chính quyền. Kết quả là nhiều tu sĩ đã chạy trốn đến miền Nam nước Ý và Sicilia. Vào cuối triều đại của Konstantinos, phong trào bài trừ thánh tượng đã tiến xa đến mức trở thành một vết nhơ cho các di vật và những lời cầu nguyện cho các thánh là dị giáo. Cuối cùng, phe thờ thánh tượng đều coi cái chết của ông là một hình phạt của Chúa. Vào thế kỷ thứ 9, mộ phần của Hoàng đế được khai quật và hài cốt của ông thì bị ném xuống biển cũng vì hành động nhơ nhuốc xưa kia.
Thảo phạt ngoại tộc
Konstantinos là một vị tướng và nhà quản lý tài năng. Ông tiến hành tái tổ chức các thema, các quân khu của đế quốc và tạo ra loại đơn vị quân đội chiến đấu mới gọi là tagmata. Tổ chức này nhằm dự định để giảm thiểu mối đe dọa từ các cuộc mưu phản và để tăng cường khả năng phòng thủ của Đế quốc. Với quân đội được tổ chức lại này, ông bắt tay vào chiến dịch trên ba tuyến biên giới lớn của Đế chế.
Năm 746, lợi dụng tình hình bất ổn tại Umayyad Caliphate vốn đã đổ vỡ dưới thời Marwan II, Konstantinos đã xua quân xâm lược Syria và đánh chiếm Germanikeia (nay là Maras, quê hương của phụ hoàng). Ông tiến hành tổ chức tái định cư cho một phần số dân Kitô giáo địa phương sang lãnh thổ Hoàng gia ở Thracia. Năm 747, hạm đội của ông đã tiêu diệt hạm đội Ả Rập ngoài khơi Síp. Hoàng đế còn đích thân dẫn đầu một cuộc xâm lược vào vương triều Abbasid Caliphate mới dưới thời As-Saffah vào năm 752. Konstantinos chiếm được Theodosioupolis và Melitene (Malatya) và lại cho tái định cư một số dân cư trong khu vực Balkan. Những chiến dịch này thất bại trong việc đảm bảo bất kỳ lợi ích cụ thể (ngoài tăng thêm dân số dùng để tăng cường biên giới khác), nhưng điều quan trọng cần lưu ý là dưới Konstantinos V đế quốc đã bước vào thế tấn công. Trong lúc đó, cùng với sự chiếm đóng của Konstantinos, vua xứ Lombard là Aistulf đã xua quân xâm nhập nước Ý và chiếm được Ravenna vào năm 755, kết thúc hơn hai thế kỷ cai trị của Đông La Mã.
Những thành công ở phía Đông đã khiến cho Đế quốc có thể theo đuổi một chính sách tích cực tại khu vực Balkan. Với việc tái định cư của dân Kitô giáo từ phương Đông sang Thracia, Konstantinos V có ý định tăng cường sự thịnh vượng và quốc phòng của khu vực, gây lo ngại cho hàng xóm phía bắc của Đế quốc là Bulgaria và dẫn tới cuộc xung đột giữa hai quốc gia vào năm 755. Kormisosh của Bulgaria dẫn quân đột kích đến tận dãy Trường thành Anastasius nhưng sau bị Konstantinos V đánh bại trong một trận kịch chiến, hoàng đế còn mở đầu một loạt chín chiến dịch thành công nhằm thảo phạt người Bulgaria trong năm tới, giành được thắng lợi trước Vinekh, người kế vị Kormisosh ngay tại Marcelae. Ba năm sau, Konstantinos đã bị đánh bại trong trận đèo Rishki thế nhưng người Bulgaria đã tận dụng thành công của họ. Năm 763, Hoàng đế khởi hành đến Anchialus với 800 tàu chở 9.600 kỵ binh và một số bộ binh. Chiến thắng của Konstantinos gồm cả Anchialus vào năm 763 đã gây ra sự bất ổn đáng kể tại Bulgaria, nơi mà sáu vị quốc vương bị mất ngôi báu do những thất bại của họ trước các chiến dịch của Đế quốc. Đến năm 775, Konstantinos bị thuyết phục để tiết lộ cho Telerig, vua của Bulgaria danh tính các đặc vụ Đông La Mã đang làm nhiệm vụ ở đây và họ mau chóng bị loại bỏ kịp thời. Konstantinos hay tin đấy đã rất tức giận và bắt đầu chuẩn bị cho một chiến dịch mới chống lại Bulgaria, nhưng chưa kịp thi hành thì Hoàng đế đột ngột qua đời vào ngày 14 tháng 9 năm 775.
Các chiến dịch quân sự của Konstantinos đều quá tốn kém; dưới triều đại của ông thu nhập hằng năm của Đế quốc Đông La Mã đã giảm xuống còn khoảng 1.800.000 nomismata do hàng loạt cuộc chiến tranh thảo phạt Bulgaria và chinh phục Ả Rập.
Gia đình
Với người vợ đầu, Tzitzak ("Irene xứ Khazaria"), Konstantinos V có một đứa con:
Với người vợ thứ hai, Maria, Konstantinos V không có đứa con nào.
Với người vợ thứ ba, Eudokia, Konstantinos V có năm đứa con trai và một người con gái:
- Christopher, Caesar
- Nikephoros, Caesar
- Niketas, Nobelissimos
- Eudokimos, Nobelissimos
- Anthimos, Nobelissimos
- Anthousa
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Konstantinos V** (718 – 775) (; kẻ thù hay phỉ báng là _Kopronymos_ hoặc _Copronymus_, nghĩa là _nỗi ô nhục_); là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 741 đến 775. ## Tiểu sử ###
**Konstantinos IX Monomachos**, Latinh hóa thành **Constantinus IX Monomachus** (; 1000 – 1055), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 11 tháng 6 năm 1042 đến ngày 11 tháng 1, 1055. Ông được Hoàng
**Konstantinos Laskaris** (Hy Lạp _Κωνσταντίνος Λάσκαρης_) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì được vài tháng từ năm 1204 đến đầu năm 1205. Đôi lúc ông được gọi là "Konstantinos XI", một số hiệu
**Nicôla V** (Latinh: **Nicolaus V**) là vị Giáo hoàng thứ 207 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1447 và ở ngôi
**Leon V xứ Armenia** (, _Leōn V ho Armenios_; ; 775 – 25 tháng 12, 820) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 813 đến 820. Với tư cách là một vị tướng cấp cao,
**Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế
**Irene thành Athena** hay **Irene người Athena** () (752 – 803) là tên thường gọi của **Irene Sarantapechaina** (), là Nữ hoàng Đông La Mã đương vị từ năm 797 đến 802. Trước khi trở
**Artavasdos** hay **Artabasdos** ( hoặc , từ tiếng Armenia: Արտավազդ, _Artavazd_, _Ardavazt_), Latin hóa thành **Artabasdus**, là một vị tướng Đông La Mã gốc Armenia đã chiếm giữ ngôi vị Hoàng đế Đông La Mã
**Leon IV người Khazar** (Hy Lạp: Λέων Δ΄ ὁ Χάζαρος, _Leōn IV ho Khazaros_) (25 tháng 1, 750 – 8 tháng 9, 780) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 775 đến 780. Leon
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Leon III xứ Isauria** còn gọi là người **Syria** (Hy Lạp: Λέων Γ΄ ὁ Ἴσαυρος, _Leōn III ho Isauros_), (685 – 18 tháng 6 741) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 717 cho
**Zoë** (, _Zōē_ nghĩa là "_sinh mệnh_") ( 978 – Tháng 6, 1050) là Nữ hoàng Đông La Mã thuộc nhà Makedonia trị vì cùng với em gái Theodora từ ngày 19 tháng 4 đến
**Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
**Theodora** (; 980 – 31 tháng 8, 1056) là Nữ hoàng Đông La Mã sinh ra trong nhà Makedonia nắm quyền cai trị Đế quốc Đông La Mã suốt gần hai trăm năm. Bà tham
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Manuel II Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (Hy Lạp: Μανουήλ Β΄ Παλαιολόγος, _Manouēl II Palaiologos_) (27 tháng 6, 1350 – 21 tháng 7, 1425) là vị Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1391 đến 1425. ##
Theo chiều kim đồng hồ, từ trên cùng bên trái: [[Tòa án Hình sự Quốc tế phát lệnh bắt giữ Tổng thống Nga Vladimir Putin và Maria Lvova-Belova; Tàu lặn Titan phát nổ trong chuyến
**Ioannes VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (, _Iōannēs VIII Palaiologos_, 18 tháng 12, 1392 – 31 tháng 10, 1448), là vị Hoàng đế Đông La Mã áp chót, trị vì từ năm 1425 đến 1448. ## Tiểu
**Aikaterini của Hy Lạp và Đan Mạch** (; tiếng Anh: _Katherine of Greece and Denmark_; 4 tháng 5 năm 1913 – 2 tháng 10 năm 2007), được gọi ở Anh với danh hiệu **Phu nhân
**Mikhael IV xứ Paphlagonia** (, _Mikhaēl ho Paphlagōn_; 1010 – 10 tháng 12, 1041) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 4 năm 1034 cho tới khi mất vào ngày 10 tháng
**Hậu duệ vương thất của Victoria** (Nữ vương Liên hiệp Anh) ** và Christian IX** (Quốc vương Đan Mạch) hiện tại vị trên ngai vàng của Bỉ, Đan Mạch, Luxembourg, Na Uy, Tây Ban Nha,
**Georgios I** hay **Georg I** (, _Geōrgios A', Vasileús tōn Ellēnōn_; 24 tháng 12 năm 1845 – 18 tháng 3 năm 1913) là một vị vua của người Hy Lạp, trị vì từ năm 1863
Dưới đây là kết quả các trận đấu trong khuôn khổ **bảng G - vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 - khu vực châu Âu**. 6 đội bóng châu Âu bao
**Maria của Hy Lạp và Đan Mạch** (tiếng Hy Lạp: _Μαρία της Ελλάδας και της Δανίας_; tiếng Nga: _Мария Гре́ческая и Да́тская_; tiếng Đan Mạch: _Maria af Grækenland og Danmark_; tiếng Đức: _Maria von Griechenland
Dưới đây là kết quả các trận đấu trong khuôn khổ bảng F – vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2016. Bảng F bao gồm sáu đội: Hy Lạp, Hungary, România, Phần
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
Dưới đây là kết quả các trận đấu trong khuôn khổ bảng H – **vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2018 khu vực châu Âu**. Bảng H bao gồm 6 đội: Bỉ,
**Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
Bài viết sau đây là tóm tắt của các trận đấu ở vòng play-off, **vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 khu vực châu Âu**. 4 đội thắng cuộc — Croatia, Pháp,
**Ioannes VI Kantakouzenos** hoặc **Cantacuzenus** (, _Iōannēs VI Kantakouzēnos_) (_khoảng_ 1292 – 15 tháng 6, 1383) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1347 đến 1354. ## Thiếu thời Sinh ra ở Constantinopolis, Ioannes
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Mikhael II** (, _Mikhaēl II_; 770 – 2.10. 829), tên hiệu là **Amoria** () hay **Người nói lắp** (ὁ Τραυλός hoặc ὁ Ψελλός), là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 12 năm 820 cho
**Christian IX** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1818 – 29 tháng 1 năm 1906) là Vua của Vương quốc Đan Mạch từ năm 1863 cho đến khi ông qua đời vào năm 1906. Từ
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**HMS _Revenge_ (06)** là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm Anh Quốc _Revenge_; là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này. Nó từng tham gia trận
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**_Chicken Invaders_** là một loạt trò chơi điện tử shoot 'em up do nhà phát triển độc lập ở Hy Lạp là Konstantinos Prouskas sáng tạo. Với việc phát hành phiên bản đầu tiên là
**Viktoria Luise của Phổ** (tiếng Đức: _Viktoria Luise von Preußen_; tên đầy đủ: _Viktoria Luise Adelheid Mathilde Charlotte_; 13 tháng 9 năm 1892 – 11 tháng 12 năm 1980) là người con cuối cùng của
Ngày **8 tháng 2** là ngày thứ 39 trong lịch Gregory. Còn 326 ngày trong năm (327 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *1971 – Chiến tranh Việt Nam: Lục quân Việt Nam Cộng
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 8 tháng 1: Vua Bảo Đại chính thức kế vị * 11 tháng 1: Trương Tác Lâm tuyên bố 3 tỉnh đông bắc Trung Quốc độc lập
430x430px|thumb|Từ trái, theo chiều kim đồng hồ: [[O. J. Simpson từng có một vụ án giết chết Nicole Brown Simpson và Ron Goldman trong năm ngoái; Một trận động đất gây thiệt hại ở Kobe,
File:1998 Events Collage 2.0.jpg|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: **Thế vận hội Mùa đông 1998** được tổ chức tại Nagano, Nhật Bản; Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton bị **luận tội** vì vụ
**Alexandra của Hy Lạp và Đan Mạch**, còn được gọi là **Aleksandra Georgievna** sau khi kết hôn ( – ), là con gái của Georgios I của Hy Lạp và Olga Konstantinovna của Nga. Alexandra
**Isaakios II Angelos** (, _Isaakios II Angelos_; Tháng 9, 1156 – Tháng 1, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1185 đến 1195, và một lần nữa từ năm 1203 đến 1204. Cha ông