✨Theodora (thế kỷ 11)

Theodora (thế kỷ 11)

Theodora (; 980 – 31 tháng 8, 1056) là Nữ hoàng Đông La Mã sinh ra trong nhà Makedonia nắm quyền cai trị Đế quốc Đông La Mã suốt gần hai trăm năm. Bà tham chính cùng với chị mình là Zoë được hai tháng vào năm 1042 và nữ hoàng đương vị duy nhất từ ngày 11 tháng 1 năm 1055 đến ngày 31 tháng 8 năm 1056. Theodora là người cuối cùng thuộc dòng Makedonia, và khi bà mất đế chế bước vào thời kỳ suy yếu kéo dài mãi cho đến lúc Alexios I Komnenos lên ngôi vào năm 1081.

Thiếu thời

Theodora là thứ nữ của Hoàng đế Đông La Mã Konstantinos VIII và Hoàng hậu Helena. Với thân phận là một công chúa bà được coi là ứng cử viên sáng giá phù hợp làm vợ Hoàng đế La Mã Thần thánh Otto III vào năm 996. Tuy vậy, đoàn sứ thần đã phớt lờ Theodora mà quay sang người chị Zoë của bà, vốn được xem cô dâu tiềm năng, nhưng Otto III đột ngột qua đời trước khi cử hành hôn lễ. Kể từ đó trở đi, Theodora và chị mình chỉ sống thui thủi trong góc khuê phòng gynaeceum. Thế nhưng, sau khi hoàng thúc Basileios II qua đời không có con cái nối dõi, và phụ hoàng mất mà chẳng có hoàng nam thừa tự, bà bị ép trở thành tâm điểm của những hoạt động chính trị cung đình. Thông minh và sở hữu tính cách ngoan cường và nghiêm nghị, Theodora từ chối nghe theo lời mai mối với Romanos Argyros mà phụ hoàng đã chọn làm người kế nhiệm, lấy cớ Romanos đã kết hôn – vợ của ông tình nguyện trở thành nữ tu để Romanos dễ bề kết nghĩa thông gia với hoàng tộc. Theodora cũng tuyên bố thêm rằng xét về mối quan hệ huyết thống thì giữa hai người là họ hàng gần nên khó có thể đi đến hôn nhân. Do vậy, Konstantinos VIII đã chọn trưởng nữ Zoë, chị của Theodora, đem gả cho Romanos vào năm 1028.

Khi Romanos ung dung ngồi vào ngôi vị hoàng đế. Theodora thận trọng lui về gynaeceum với sinh hoạt tôn giáo hàng ngày của mình, nhưng điều này không sao tránh khỏi sự ghen tị của Zoë. Bà không bao giờ tha thứ cho cô em gái vì trở thành sự lựa chọn đầu tiên mà phụ hoàng muốn gả cho Romanos, do vậy Zoë đã thuyết phục Romanos bổ nhiệm thuộc hạ của mình làm đội trưởng lính canh nhằm theo dõi nhất cử nhất động của Theodora. Một thời gian ngắn sau đó, Theodora bị triều đình buộc tội có ý đồ tiếm vị với Presian xứ Bulgaria. Dù Presian đã bị chọc mù mắt và tống vào một tu viện hẻo lánh, Theodora vẫn chưa bị triều đình xử phạt, nhưng vào năm 1031 bà lại dính líu vào một âm mưu khác, lần này là với Konstantinos Diogenes, Quan chấp chính thành Sirmium. Theodora bị tình nghi mưu phản và chịu lệnh quản thúc trong tu viện Petrion. Rồi Zoë đến thăm Theodora và bắt phải tiếp nhận Chức Thánh. Bà vẫn ở nơi này trong mười ba năm tiếp theo, trải qua thời kỳ chấp chính của Zoë và Romanos III và sau là Mikhael IV.

Thời kỳ đồng trị vì

nhỏ|Đồng Histamenon của Zoë và Theodora, năm 1042 Ngày 10 tháng 12 năm 1041 Mikhael IV băng hà. Zoë nghe theo kiến nghị của Ioannes Orphanotrophos đã nhận nuôi cháu của Mikhael và đưa lên ngôi hoàng đế hiệu là Mikhael V. Dù hứa là sẽ tôn trọng Zoë, ông kịp thời tống bà đến một tu viện trên đảo Principus (thuộc quần đảo Hoàng Tử) với tội danh mưu sát vua. Cách đối xử của người thừa kế hợp pháp nhà Makedonia đã gây ra một cuộc bạo động của dân chúng ở kinh thành Constantinopolis, và vào ngày 19 tháng 4 năm 1042, nhân dân kinh đô đã truất ngôi Mikhael V qua sự kích động của Zoë và Theodora. Vị phế đế tuyệt vọng giữ lại ngai vàng của mình, lúc đầu ông vội sai người đưa Zoë từ đảo Hoàng Tử ra diện kiến thần dân, nhưng lời yêu cầu để ông tiếp tục cai trị cùng bà đã bị từ chối. Những thành viên chủ chốt trong triều nghị bàn về việc Zoë quá nhẹ dạ nên cần có một người đồng cai trị và họ quyết định chọn Theodora. Một phái đoàn do patrikios Konstantinos Cabasilas dẫn đầu đã tới tu viện ở Petrion để thuyết phục Theodora trở thành đồng nữ hoàng cùng với chị gái của mình. Sau buổi lễ đăng quang của Theodora, đám đông xông vào cung điện cung điện, buộc Mikhael V phải thay đổi y phục trốn sang một tu viện lánh nạn.

Zoë lập tức lên nắm quyền và ép Theodora quay trở lại tu viện, nhưng cả Viện Nguyên lão và dân chúng đều lên tiếng đòi hai người tham chính. Hành động đầu tiên của Theodora trong cương vị mới là kêu gọi chị mình không nên thỏa thuận với Mikhael V. Zoë quá yếu đuối và dễ bị thao túng muốn tha thứ và trả tự do cho Mikhael trái lại Theodora thì cương nghị và cứng rắn. Lúc đầu bà đảm bảo tính mạng của Mikhael sẽ được an toàn trước khi ra lệnh chọc mù mắt và đẩy ông vào tu viện làm tu sĩ suốt phần đời còn lại. Khi đã giải quyết xong chuyện Mikhael V, Theodora từ chối rời khỏi Nhà thờ Hagia Sophia cho đến khi nhận được tin từ Zoë, 24 giờ sau Theodora làm lễ đăng quang. Trên danh nghĩa, Theodora chỉ là Nữ hoàng có thứ bậc thấp hơn chị mình nên ngôi vị của bà còn phải phụ thuộc vào Zoë mỗi lần thiết triều. Cả hai chị em về sau đều nắm quyền bính của đế quốc, tập trung kiềm chế việc buôn bán chức tước và thực thi công lý. Dù Mikhael Psellos coi thời kỳ chấp chính của hai nữ hoàng là một thất bại hoàn toàn, sử gia Ioannes Skylitzes trái lại cho rằng họ rất tận tâm trong việc chấn chỉnh sự lạm quyền từ các đời vua trước.

Mặc dù Theodora và Zoë xuất hiện cùng nhau tại các cuộc họp của Viện Nguyên lão hay khi tiếp kiến quần thần, điều này chứng tỏ rằng triều đại đồng trị vì của họ không kéo dài được bao lâu. Zoë vẫn còn ghen ghét đố kị với Theodora và chẳng màng gì đến chính sự, nhưng bà không cho phép Theodora độc chiếm quyền hành. Triều đình sớm phân chia bè phái với những thế lực ngầm hình thành sau lưng mỗi người. Trải qua nhiều mối tình, sau cùng Zoë mới kết hôn với Konstantinos Monomachos. Cặp đôi kết hôn vào ngày 11 tháng 6 năm 1042, mà không có sự tham dự của Thượng phụ Alexios I thành Constantinopolis. Ngày hôm sau Konstantinos chính thức lên ngôi hoàng đế cùng với Zoë và Theodora phụ chính. Dù bề ngoài Theodora và Zoë vẫn được công nhận với tư cách là những nữ hoàng đế và Theodora tiếp tục xuất đầu lộ diện tại các buổi lễ chính thức, mọi quyền hành đều được giao phó cho người em rể. Tuy vậy, bà vẫn còn có thể gây một số ảnh hưởng lên triều đình, như được minh chứng qua lệnh bắt giữ và chọc mù mắt Ioannes Orphanotrophos, viên quyền thần từng phụng sự các triều vua Romanos III, Mikhael IV và Mikhael V, và có một thời sống lưu vong sau khi phế truất Mikhael V.

Trái với những gì Zoë mong đợi từ khi Konstantinos quyết định mang theo ý chung nhân Maria Skleraina. Không hài lòng về việc nhập cung, ông khăng khăng đòi được phép công khai mối tình của mình và trao cho Skleraina một chút danh phận chính thức. Điều đáng ngạc nhiên ở chỗ Zoë lúc này đã 64 tuổi không phản đối chung chăn gối và vị thế với Skleraina. Hai nữ hoàng đã ban cho Skleraina tước hiệu sebaste và địa vị chỉ đứng sau Zoë và Theodora, được gọi là despoina, tình nhân hay nữ hoàng, giống như họ và chỉ xếp thứ yếu trong những buổi rước kiệu và nghi lễ chính thức. Điều này đã khiến cư dân thành Constantinopolis phẫn nộ và dấy loạn vào năm 1044, gây nguy hại thực sự đến tính mạng của Konstantinos đang tham dự một đám rước tôn giáo dọc theo đường phố Constantinopolis. Đám đông chỉ dịu lại chỉ khi Zoë và Theodora xuất hiện trên ban công cung điện, trấn an thần dân rằng họ chưa gặp bất kỳ nguy cơ ám sát nào cả. Thế nhưng, kế hoạch của họ đã bị Theodora phát giác và ra tay trước, bất chấp nữ hoàng đang độ tuổi thất tuần, bà vẫn ngấm ngầm đòi lại quyền trị quốc vốn dĩ thuộc về mình. Trước tiên, Theodora rời khỏi chốn ẩn cư trong tu viện, triệu tập Viện Nguyên lão rồi đường đường chính chính lên ngôi "hoàng đế" với sự ủng hộ của cấm vệ quân ngay trước khi Konstantinos băng hà. Vừa yên vị được ít lâu, Nữ hoàng quyết định mở một cuộc thanh trừng các quan chức cấp cao và lãnh đạo các đơn vị quân đội châu Âu bị tố cáo phản nghịch. Tagmata phía Tây Nikephoros Bryennios lộ rõ dã tâm xưng đế cũng bị cách chức và lưu đày theo lệnh của Theodora, sau đó bà tịch thu tài sản và xua đuổi đồng đảng của ông này. Bằng tài trị quốc vững vàng của mình, bà ra sức kiểm soát giới quý tộc ngang bướng và kiểm tra nhiều vụ nhũng nhiễu dân chúng. Tuy vậy nữ hoàng cũng gây tổn hại đến thanh danh của mình qua cách nghiêm trị những kẻ thù riêng và dung túng hành vi tác oai tác quái của đám hầu cận với nhóm cố vấn, bao gồm cả viên quyền thần Leon Paraspondylos. Phe cánh Leon Paraspondylos chỉ quan tâm đến việc duy trì quyền kiểm soát triều đình nhân danh vị nữ hoàng già nua, trong khi Thượng phụ Mikhael Keroularios lại chú trọng đến vấn đề kế vị với chủ trương nữ hoàng nên kết hôn mới có thể đảm bảo ngai vàng được lâu bền dù bà một mực từ chối. Mọi chức vụ văn quan võ tướng trong triều đều do các thái giám hầu cận đảm nhiệm, ngay cả vị tướng tài năng như Isaac Komnenos còn bị thay thế bằng viên quan có chức vụ nhỏ hơn.

Theodora dần dần trở nên ốm yếu vì mắc chứng rối loạn đường ruột vào cuối tháng 8 năm 1056 và qua đời vài ngày sau đó, ngày 31 tháng 8 năm 1056, hưởng thọ 76 tuổi. Do không có con cái và là thành viên cuối cùng của dòng tộc Makedonia, nữ hoàng đã chọn viên sủng thần của mình, vốn là cựu đại thần tài chính quân vụ Mikhael Bringas làm người nối dõi theo lời khuyên của trọng thần Leon Paraspondylos. Hy vọng phục hồi phần nào thể trạng của mình, Theodora đã bắt người kế nhiệm thề rằng ông ta sẽ luôn luôn vâng lời bà trong khi bà vẫn còn sống. Cuối cùng Mikhael chẳng phải chờ đợi lâu bởi lẽ Theodora chỉ còn thoi thóp được độ một vài giờ sau khi chỉ định ông làm hoàng đế. Về mặt huyết thống Mikhael VI chẳng có liên hệ gì đến nhà Makedonia đã trị vì đế quốc Đông La Mã suốt 189 năm, do vậy mà ông không được lòng người, gây ra hàng loạt các cuộc xung đột tranh giành ngôi vị giữa các thế gia đại tộc kéo dài từ năm 1056 cho đến khi nhà Komnenos kiến lập vào năm 1081.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Theodora** (; 980 – 31 tháng 8, 1056) là Nữ hoàng Đông La Mã sinh ra trong nhà Makedonia nắm quyền cai trị Đế quốc Đông La Mã suốt gần hai trăm năm. Bà tham
thumb|Theodora được miêu tả như một vị thánh, trong một biểu tượng tôn giáo của [[Hy Lạp vào thế kỷ 19.]] **Theodora** (, khoảng 815 – sau 867) là Hoàng hậu Đông La Mã và
**Mikhael Psellos** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ψελλός, _Mikhaēl Psellos_) là một tu sĩ, nhà văn, triết gia, chính trị gia và nhà sử học Đông La Mã gốc Hy Lạp. Ông sinh vào năm 1017 hoặc
**Anna Komnene** (, _Ánna Komnēnḗ_; 1 tháng 12, 1083 – 1153), thường được Latinh hóa thành **Anna Comnena**, là một công chúa, học giả, bác sĩ, quản lý bệnh viện và nhà sử học Đông
**Konstantinos IX Monomachos**, Latinh hóa thành **Constantinus IX Monomachus** (; 1000 – 1055), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 11 tháng 6 năm 1042 đến ngày 11 tháng 1, 1055. Ông được Hoàng
**Mikhael III** (, _Mikhaēl III_; 19 tháng 1, 840 – 23/24 tháng 9, 867) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 842 đến 867. Mikhael III là thành viên thứ ba và cuối cùng
**Theodora Tocco** (nhũ danh **Maddalena Tocco**) (? - 1429) là người vợ đầu tiên của Konstantinos XI khi ông còn là Công tước xứ Morea. Về sau sẽ trở thành vị Hoàng đế cuối cùng
thumb|469x469px|Búc tranh khắc bằng ngà voi gọi là "[[Ngà Romanos" mà một số học giả cho rằng có thể chính là Eudokia và Romanos IV được Chúa Kitô đội vương miện.]] **Eudokia Makrembolitissa** (, khoảng
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Zoë** (, _Zōē_ nghĩa là "_sinh mệnh_") ( 978 – Tháng 6, 1050) là Nữ hoàng Đông La Mã thuộc nhà Makedonia trị vì cùng với em gái Theodora từ ngày 19 tháng 4 đến
**Theodora** (; Hy Lạp:. Θεοδώρα; - 28 tháng 6 năm 548) là hoàng hậu của Đế chế Đông La Mã, là vợ của Hoàng đế Justinian I. Bà là một trong những hoàng hậu có
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Mikhael VI Bringas** (, _Mikhaēl VI Bringas_; ? – 1059), còn gọi là _Stratiotikos_ ("Thống soái", "Kiêu hùng" hay "Hiếu chiến") hay _Gerontas_ ("Lão làng"), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1056 đến
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Ioannes III Doukas Vatatzes**, (, _Iōannēs III Doukas Vatatzēs_, khoảng 1193, Didymoteicho – 3 tháng 11, 1254, Nymphaion), là Hoàng đế Nicaea trị vì từ năm 1222 đến năm 1254. Kế vị ông là người
nhỏ|296x296px| Tranh khảm Byzantine là một trong những tác phẩm lừng danh còn sót lại của [[Hagia Sophia ở Constantinople - chân dung của Christ Pantocrator trên các bức tường của phòng trưng bày phương
**Mikhael V** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ε΄, _Mikhaēl V_; 1015 – 24 tháng 8, 1042) là Hoàng đế Đông La Mã tại vị trong vòng bốn tháng vào năm 1041–1042, cháu và người thừa kế của Mikhael
**Konstantinos VIII** (, _Kōnstantinos VIII_) (960 – 11 tháng 11, 1028) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 15 tháng 12 năm 1025 cho đến khi ông qua đời. Ông là con trai
**Eirene Doukaina** hay **Ducaena** (, _Eirēnē Doukaina_; – 19 tháng 2, 1138) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Alexios I Komnenos, và là mẹ của hoàng đế Ioannes II Komnenos và nữ sử
**Romanos III Argyros** (, _Rōmanos III Argyros_; 968 – 11 tháng 4, 1034), là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 15 tháng 11 năm 1028 cho đến lúc qua đời. ## Tiểu sử ###
**Ursula Kroeber Le Guin** (; sinh ngày 21 tháng 10 năm 1929, mất ngày 22 tháng 1 năm 2018) là một tác giả người Mỹ chuyên viết tiểu thuyết, sách trẻ em, và những câu
**Hoa hậu Thế giới 2017** là cuộc thi Hoa hậu Thế giới lần thứ 67 được tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2017 tại Nhà hát Vương miện sắc đẹp thuộc đảo Hải
**Justinianos II** (, Ioustinianos II, ) (669 – 11 tháng 12, 711), họ là **_Rhinotmetos_** hoặc **_Rhinotmetus_** (, "mũi rọc"), là vị Hoàng đế Đông La Mã cuối cùng của Vương triều Herakleios trị vì
**Konstantinos VII** **_Porphyrogennetos_** hay **_Porphyrogenitus_**, nghĩa là "Dòng dõi vương giả" (; 2 tháng 9, 905 – 9 tháng 9, 959), là vị Hoàng đế thứ tư thuộc vương triều Makedonia của Đế quốc Đông
**Jovan Vladimir** hoặc **John Vladimir** (tiếng Serbia Cyrillic: Јован Владимир; khoảng năm 990 - 22 tháng 5 năm 1016) là người cai trị của Duklja, công quốc Serbia mạnh mẽ nhất vào lúc đó, từ
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng
**Eudokia** (hay **Eudocia**) **Ingerina** () (khoảng 840 – 882) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Basileios I, tình nhân của tiên đế Mikhael III, và là mẹ của cả hai Hoàng đế Leon
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Isaakios II Angelos** (, _Isaakios II Angelos_; Tháng 9, 1156 – Tháng 1, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1185 đến 1195, và một lần nữa từ năm 1203 đến 1204. Cha ông
**Pavlos, Thái tử Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: _Παύλος, διάδοχος της Ελλάδας_; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1967) là người con thứ hai và là con trai lớn nhất của Quốc vương Konstantinos II
**Alexios III Angelos** () (khoảng 1153 – 1211) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 3 năm 1195 cho đến ngày 17/18 tháng 7 năm 1203. Là một thành viên có mối liên hệ
**Mckenna Grace** (sinh ngày 25 tháng 6 năm 2006) là một nữ diễn viên người Mỹ. Cô bắt đầu diễn xuất chuyên nghiệp khi mới 6 tuổi, những vai diễn đầu tiên bao gồm Jasmine
**Mihai Viteazu** hoặc gọi là **Mihai Bravu** (sinh ngày 1558 – 9 tháng 8 năm 1601) Hoàng tử Moldavia (1600) và nhà cai trị thực tế của Transylvania (1599 – 1600). Ông được coi là
**Romanos II** (Hy Lạp: Ρωμανός Β΄, _Rōmanos II_) (938 – 15 tháng 3, 963) là Hoàng đế Đông La Mã. Ông kế vị phụ hoàng Konstantinos VII vào năm 959 ở tuổi hai mươi mốt
**Ioannes I Tzimiskes** (, _Iōannēs I Tzimiskēs_; khoảng 925 – 10 tháng 1, 976) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 12 năm 969 đến ngày 10 tháng 1 năm 976. Là một
**Justinus II** (; ; kh. 520 – 5 tháng 10 năm 578) là hoàng đế Đông La Mã từ năm 565 tới 574. Ông kết hôn với Sophia, cháu gái của Justinianus I và hoàng
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**_Lạc vào xứ Oz vĩ đại và quyền năng_** (tựa tiếng Anh: **_Oz the Great and Powerful_**) là một bộ phim phiêu lưu hài hước của Hoa Kỳ sản xuất năm 2013, đạo diễn bởi
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Vigiliô** (Latinh: _Vigilius_) là vị Giáo hoàng thứ 59 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử năm 538 và ở ngôi Giáo hoàng trong 16 năm
**Giuliô II** (Latinh: **Julius II**) là vị giáo hoàng thứ 216 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu chọn làm Giáo hoàng năm 1503 và ở
**Người Neanderthal** (phát âm tiếng Anh: , còn được viết là **Neandertal**, phiên âm tiếng Việt: **Nêanđectan**, với các danh pháp khoa học: **_Homo neanderthalensis_** hay **_Homo sapiens neanderthalensis_**) Nhiều học giả khác đề xuất
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius ​​Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I