✨Người Sarmatia

Người Sarmatia

Người Sarmatia, người Sarmatae hay người Sauromatae (tiếng Iran cổ Sarumatah 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ đã di cư từ Trung Á tới khu vực dãy núi Ural vào khoảng thế kỷ 5 TCN và cuối cùng định cư tại vùng xa nhất về phía nam thuộc châu Âu của Nga, Ukraina và miền đông Balkan.

Pliny Già đã viết rằng tên gọi trong tiếng Latinh Sarmatae là đồng nhất với từ trong tiếng Hy Lạp Sauromatae. Khi trải rộng nhất như đã được thuật lại, các bộ lạc này sinh sống từ khu vực sông Vistula tới cửa sông Danub và về phía đông tới sông Volga, và từ lãnh thổ huyền bí của người Hyperborea ở phía bắc, kéo dài về phía nam tới bờ biển Đen (Hắc Hải) và biển Caspi, bao gồm cả khu vực nằm giữa chúng và xa tới vùng dãy núi Kavkaz. Số lượng nhiều và đa dạng nhất các ngôi mộ cũng như các đồ tạo tác Sarmatia có ý nghĩa nhất được tìm thấy tại Krasnodar krai của Nga.

nhỏ|phải|"Sarmatia Europæa" tách ra từ "Sarmatia Asiatica" bởi sông [[sông Đông|Tanais (sông Đông), dựa trên các nguồn tài liệu Hy Lạp, trong bản đồ in tại London, khoảng năm 1770.]] Tên gọi cũ của Paraćin (Paratjin) ở Serbia là Sarmatae.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên là ranh giới của cái gọi là đường đồng ngữ Centum-Satem trong ngữ hệ Ấn-Âu dường như là chia tách tại biên giới phía châu Âu của người Sarmatia.

Vào khoảng năm 100 TCN, vùng đất của người Sarmatia trải dài từ biển Barents hoặc biển Baltic ("Oceanus Sarmaticus") qua vùng các sông nhánh của sông Vistula, tới dãy núi Carpath và cửa sông Danub, sau đó về phía đông dọc theo vùng bờ biển phía bắc của biển Đen, ngang qua vùng Kavkaz tới biển Caspi và quay trở lại phía bắc dọc theo sông Volga tới vòng Bắc cực.

Người Sarmatia đã phát triển thịnh vượng từ thời của Herodotus và liên minh phần nào với người Hung khi họ đến đây trong thế kỷ 4.

Một trào lưu niềm tin phổ biến (chủ nghĩa Sarmatia) trong Liên bang Ba Lan-Litva trong giai đoạn từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19, cho rằng đẳng cấp quý tộc là hậu duệ trực tiếp của người Sarmatia. Tuy nhiên không có chứng cứ cụ thể nào hỗ trợ cho tuyên bố như vậy.

Khảo cổ và dân tộc học

nhỏ|phải|[[Đại thảo nguyên Á-Âu ở Kazakhstan vào đầu mùa xuân.]]

Năm 1947, nhà sử học hàng đầu của Liên Xô là Boris Grakov đã định nghĩa một nền văn hóa xuất hiện vào giai đoạn của các mồ mả kiểu kurgan giai đoạn cuối, đôi khi tái sử dụng một phần của các kurgan cổ hơn. Nó là nền văn hóa thảo nguyên du mục trải dài từ biển Đen tới phía bờ kia sông Volga, và đặc biệt rõ nét tại hai trong số các di chỉ chính tại Kardaielova và Chernaya trong vùng thảo nguyên xuyên Ural.

Niên đại và vị trí của nền văn hóa này (từ thế kỷ 7 TCN tới thế kỷ 4) là đồng thời với các thông tin dạng văn viết mà người ta có về người Sarmatia. Theo Grakov, người ta định nghĩa 4 giai đoạn:

Sauromatia, thế kỷ 6 - 5 TCN

Tiền Sarmatia, thế kỷ 4 - 2 TCN

Trung Sarmatia, cuối thế kỷ 2 TCN tới cuối thế kỷ 2

Hậu Sarmatia: cuối thế kỷ 2 tới thế kỷ 4

Người Sarmatia theo ghi chép của Ptolemy là thuộc giai đoạn Trung Sarmatia. Tuy nhiên, Sarmatia theo như Grakov không trải rộng tất cả vào khu vực Balt-Slav, tại đó hai thành phần này có các dấu tích khảo cổ học riêng của chính chúng, do người Balt và người Slav để lại.

Đã bám chắc về phía tây tại khu vực miền đông châu Âu, người Hung sinh sống tại khu vực phía bắc của người Alan và kéo dài về phía đông tới biên giới với nhà Hán ở Trung Quốc. Những người Hung này là các đối tác thương mại ưa chuộng hòa bình của người Alan (những người ưa thích chiến tranh). Các di tích khảo cổ cho thấy kiểu cách sống của họ gần như không thể phân biệt với kiểu cách sống của người Alan. Các dân tộc khác nhau của vùng đồng bằng rộng lớn miền đông đã tạo ra các ấm đun nước bằng đồng thiếc rất đặc trưng của chính mình. Bên cạnh đó, các ngôi mộ của dân cư Trung Á, bao gồm cả của người Hung, chứa các di tích mà nhiều người tin là có các đặc trưng hỗn hợp, cũng giống như là các dân tộc Trung Á ngày nay.

Dù điều gì đã xảy ra ở miền đông để đưa các chiến binh từ đó (người Hung) tới chỗ người Alan thì nó cũng không đưa vào vùng thảo nguyên (hoặc châu Âu) một dân tộc mới. Cho đến tận khi người Sarmatia phải e ngại, thì sự thêm vào các yếu tố Hung từ phía đông chỉ tạo ra sự đảo ngược sắc tộc trong địa vị thống trị. Một số người Alan lựa chọn cách chạy tới chỗ của người La Mã còn những người Alan khác thì chiến đấu cho người Hung. Nhóm thứ nhất đã biến mất trong lòng châu Âu từ lâu, trong khi nhóm ở lại thì còn tồn tại trong khu vực Kavkaz (Xem người Alan).

Lịch sử

Herodotus

Herodotus trong cuốn Histories phần 4.21 của ông, viết vào thế kỷ 5 TCN, coi vùng đất của người Sarmatia là nằm ở phía đông của sông Tanais, bắt đầu từ góc giáp hồ Maeotae (biển Azov), kéo dài về phía bắc trong hành trình khoảng 15 ngày đi đường, cận kê với vùng đồng rừng của người Budini. Herodotus mô tả người Sarmatia về bề ngoài như là những người mập mạp, tóc vàng, da rám nâu, nói ngắn gọn thì hơi giống như người Scythia và người Thrace được các tác giả cổ đại khác nhìn nhận.

Herodotus (4.110-117) thuật lại nguồn gốc dân tộc kỳ cục của người Sauromatae (Σαυρομάτης có nghĩa từ nguyên học là "người có mắt giống mắt thằn lằn", có thể là do các đặc trưng mắt hình quả hạnh của người châu Á), như là các hậu duệ của một toán người Scythia trẻ và một nhóm các Amazon (nữ chiến binh). Trong sử sách, một số Amazon bị người Hy Lạp bắt được trong các trận đánh tại Pontus (miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ) gần sông Thermodon, và những tù nhân này được chở trên ba chiếc thuyền. Họ đã chiến thắng những người bắt giữ họ khi ở trên biển, nhưng lại không là các thủy thủ có khả năng. Các chiếc thuyền của họ đã trôi dạt về phía bắc tới hồ Maeotae (biển Azov) và dạt vào bờ phía Scythia gần khu vực vách núi đá (ngày nay là đông nam Krym). Sau khi gặp gỡ với người Scythia và học tiếng Scythia, họ đồng ý lấy những người đàn ông Scythia, nhưng chỉ với điều kiện là họ sẽ dọn đi xa và không buộc phải tuân theo các tập quán của phụ nữ Scythia. Theo Herodotus, hậu duệ của toán người này đã định cư ở phía đông bắc, phía bên kia bờ sông Tanais và trở thành người Sauromatia. Miêu tả của Herodotus giải thích về nguồn gốc của tiếng Sarmatia như là dạng "pha tạp" của tiếng Scythia cũng như là quyền tự do bất thường của phụ nữ Sauromatae, bao gồm quyền tham gia vào các trận chiến, cũng như quyền thừa kế từ các tổ tiên được cho là các Amazon của họ. Các tác giả sau này nói tới "người Sarmatae do nữ giới cai trị" (γυναικοκρατούμενοι).

Hippocrates

Hippocrates trong De Aere 24 đã phân loại người Sarmatia một cách dứt khoát như là người Scythia.

Strabo

Strabo đề cập tới người Sarmatia tại một số chỗ, nhưng không nói nhiều về họ. Ông sử dụng cả từ Sarmatai lẫn từ Sauromatai, nhưng không cùng nhau và cũng không gợi ý rằng họ là các dân tộc khác nhau. Ông thường đặt người Sarmatia và người Scythia thành cặp đôi trong tham chiếu tới một loạt các tên gọi sắc tộc, nhưng không nói rõ ai là ai, mặc dù từ Sarmatia hay Scythia có thể áp dụng tương đương tới các sắc tộc này một cách tổng thể.

Theo cách diễn giải của Strabo thì người Sarmatia trải rộng từ phía trên sông Danub về phía đông tới sông Volga, và từ phía bắc sông Dnepr tới vùng Kavkaz, mà tại đó, như ông nói, họ được gọi là người Kavkaz giống như những giống người khác tại đó. Miêu tả này chỉ ra rằng người Alan đã có quê hương tại vùng Kavkaz mà không phải đợi đến khi người Hung ép họ phải dời tới đó.

Có giá trị đáng kể hơn là ông đã chỉ ra sự hỗn hợp Celt trong khu vực của người Basternae, những người, như ông viết, có nguồn gốc Đức. Các bộ lạc Boii, Scordisci và Taurisci dạng Celt cũng có mặt tại đây. Thành phần sắc tộc thứ tư khi đó đang biến mất đi là người Thrace (7.3.2). Ngoài ra, các dân tộc về phía bắc là người Keltoskythai, hay "người Scythia Celt" (11.6.2).

Strabo cũng mô tả các dân tộc trong khu vực như là dân du mục, hay Hamaksoikoi, "người ở trên xe ngựa" và Galaktophagoi, "người ăn sữa" để chỉ, chắc chắn không còn nghi ngờ, tới món sữa ngựa chua (kumis) phổ thông được người ta ăn trong khoảng thời gian lịch sử này. Các cỗ xe được sử dụng để vận chuyển các lều trại làm từ phớt, là các yurta (lều của dân du mục) được các bộ lạc du mục châu Á sử dụng rộng rãi.

Pliny Già

Tacitus không phải nhà quân sự La Mã duy nhất chú ý tới người Sarmatia. Pliny Già, dựa trên các tin tức tình báo từ các trạm quân sự La Mã ở phía bắc (vào thời gian đó hổ phách từ vùng Baltic được các đại lý La Mã thu mua tại chỗ), cung cấp sự trình bày chỉ rõ nhất đặc trưng của người Sarmatia (4.12.79-81):

Đoạn này dường như chỉ ra cho người ta biết rằng người Scythia hoặc sự cai trị của họ đã từng trải rộng tới chỗ của người Đức, nhưng hiện nay chỉ còn lại tại các vùng xa. Jordanes (thế kỷ 6) ủng hộ giả thuyết này bằng việc viết ra rằng, một mặt ông khá thông thuộc Geography của Ptolemy, trong đó gộp toàn bộ lãnh thổ Balt-Slav trong Sarmatia, và mặt khác rằng cùng một khu vực này chính là Scythia. Với từ "Sarmatia", Jordanes chỉ muốn nói tới vùng lãnh thổ người Arya. Người Sarmatia vì thế không phải là người Scythia.

Tacitus

Sách De Origine et situ Germanorum của Tacitus nói về "nỗi e ngại chung" giữa các sắc tộc Đức và người Sarmatia:

Tất cả lãnh thổ Germania được phân chia từ Gaule, Raetia, và Pannonia bởi các sông Rhine và Danub; từ người Sarmatia và người Dacia bởi nỗi e ngại chung và các dãy núi. Đại dương che phủ phần còn lại, bao gồm các vịnh rộng và các dải đảo rộng lớn. Chỉ gần đây, chúng ta mới biết về các bộ lạc và các vị vua nhất định, mà cuộc chiến của họ đã được đưa ra ánh sáng.

Theo Tacitus, giống như người Ba Tư, người Sarmatia mặc áo choàng dài, rủ xuống (chương 17). Ngoài ra, người Sarmatia thu các cống phẩm từ người Cotini và Osi và sắt từ người Cotini (chương 43) "vì sự xấu hổ của họ" (có lẽ là do họ có thể sử dụng sắt để vũ trang cho chính mình và để kháng cự).

Ptolemy

Vào thế kỷ 3 TCN, tên gọi Sarmatia dường như đã thay thế cho tên gọi Scythia trong vùng đồng bằng của khu vực ngày nay là miền nam Ukraina. Nhà địa lý Ptolemy miêu tả về họ ở thời điểm có lẽ khi họ mở rộng nhất, phân chia thành các khu vực châu Âu và Trung Á cận kề. Lưu ý tới sự chồng chéo trong tên gọi các bộ lạc của người Scythia và người Sarmatia, có lẽ không có sự thay thế mới nào đã diễn ra. Dân tộc có lẽ vẫn chỉ là người Ấn-Âu như họ đã từng là như vậy, nhưng với tên gọi khác.

Pausanias

Muộn hơn, Pausanias, xem xét các đồ lễ tạ gần Acropolis Athens trong thế kỷ 2 (Description of Greece 1.21.5-6), đã tìm thấy trong số đó các giáp che ngực của người Sauromatae.

Miêu tả của Pausanias được xác minh trong các hình khắc từ Tanais. Những thực tế này không nhất thiết phải là không tương thích với miêu tả của Tacitus, do người Sarmatia ở miền tây có thể phải dành dụm sắt của họ cho chính mình, nó từng là mặt hàng khan hiếm tại các vùng đồng bằng. Nếu đúng, sự kiện này chứng tỏ sự thiếu vắng chính quyền trung ương hay thậm chí là sự giao thiệp kém (trái với người Ba Tư).

Các chữ khắc Hắc Hải

Một phần lớn các tên gọi nước ngoài xuất hiện trong các chữ khắc khu vực Olbia, Tanais và Panticapaeum được coi là của người Sarmatia, và do chúng được diễn giải khá tốt bằng thứ tiếng Iran hiện nay được người Ossetia vùng Kavkaz (tiếng Ossetia) sử dụng, những người được coi là đại diện ngày nay của người Sarmatia và có thể thấy là có mối liên hệ trực tiếp với người Alan, một trong các bộ lạc của họ.

Ammianus Marcellinus

Người Sarmatia vẫn còn là một lực lượng mà người La Mã phải để tâm tới vào cuối thế kỷ 4. Ammianus Marcellinus (29.6.13-14) miêu tả một số thất bại, mà những kẻ cướp Sarmatia gây ra cho các lực lượng La Mã tại tỉnh Valeria ở Pannonia vào cuối năm 374. Người Sarmatia gần như đã tiêu diệt cả quân đoàn lê dương được tuyển mộ từ Moesia và một quân đoàn khác từ Pannonia, được gửi đến để chặn đứng một toán người Sarmatia đang truy kích một quan chức La Mã cấp cao có tên gọi là Aequitius vào sâu trong lãnh thổ La Mã. Hai quân đoàn này đã không có sự phối hợp và mối bất hòa giữa họ đã cho phép người Sarmatia có thể giáng cho họ một đòn choáng váng.

Kết thúc thời cổ đại

Người Sarmatia vẫn còn duy trì sự thống trị cho tới tận khi có uy thế của người Goth trong khu vực biển Đen và sau đó đã biến mất khi người Hung tiêu diệt đế quốc của người Goth và sau đó xâm lăng Trung Âu. Từ các cơ sở tại Hungary ngày nay, người Hung đã cai trị toàn bộ vùng lãnh thổ trước đây là của người Sarmatia. Các thành phần hợp thành khác nhau của họ có được thuở bình sinh dưới sự cai trị của người Hung, đã chiến đấu vì người Hung để chống lại liên quân La Mã-Đức, và đã rẽ theo con đường của chính mình sau trận Chalons, sau cái chết của Attila và sự biến mất các yếu tố cai trị của người Chuvash ở phía tây sông Volga.

Điều này mâu thuẫn với Priscus, người nhìn thấy nhiều người Scythia 'hạnh phúc' xung quanh Attila. Họ đóng một vai trò đáng kể trong sự nổi lên của nước Nga sơ kỳ.

Đại chiến dịch của Constantine năm 332

Người Goth đã tấn công các bộ lạc Sarmatia ở phía bắc sông Danub (ngày nay là România). Hoàng đế La Mã Constantine đã cho gọi Flavius Claudius Constantinus từ Galia về để chỉ huy chiến dịch. Trong thời tiết rất lạnh thì chiến thắng của người La Mã là áp đảo, 100.000 người Goth bị giết và Ariaricus - con trai của vua Goth đã bị bắt sống.

Đại chiến dịch của Constantine năm 334

Cố gắng ngăn chặn sự mở rộng của người Goth ở phía bắc vùng Hạ Danub (Romania ngày nay), người Sarmatia đã vũ trang cho các nô lệ của mình. Sau chiến thắng của La Mã thì cư dân địa phương đã nổi dậy chống lại các chủ nhân Sarmatia, buộc người Sarmatia phải rời xa biên giới với La Mã. Người Sarmatia nhờ Constantine giúp đỡ. Constantine đã đánh bại Limigantes, thủ lĩnh của cuộc nổi dậy, và dọn dân Sarmatia đến. Tại các tỉnh của La Mã, những chiến binh được tuyển vào quân đội La Mã còn cư dân còn lại thì được phân bố vào Thracia, Macedonia và Italy. Origo Constantini đề cập tới 300.000 người tị nạn trong hoạt động này. Sau đó hoàng đế Constantine lấy tước hiệu Sarmaticus Maximus.

Di truyền học

DNA cổ đại của 13 di hài Sarmatia từ các kurgan Pokrovka và Meirmagul đã được tách ra cho phân tích so sánh. Phần lớn các dấu vết di truyền học đã được xác định là có nguồn gốc từ miền tây Á-Âu, trong khi chỉ có một ít có nguồn gốc từ Trung/Đông Á.

Nghiên cứu gần đây

Trong khai quật gần đây tại các di chỉ Sarmatia của tiến sĩ Jeannine Davis-Kimball, một ngôi mộ đã được tìm thấy trong đó các nữ chiến binh được chôn cất, vì thế nó tăng thêm độ tin cậy cho các huyền thoại về các Amazon.Các Amazon được nói tới như là các bà vợ của người Sauromatae.

Tại Hungary, một trung tâm gốm lớn Hậu Sarmatia đã được khai quật giai đoạn 2001-2006 gần Budapest, ở di chỉ khảo cổ Üllő5. Đồ gốm Üllő5 thường màu xám, dạng hạt tạo thành một nhóm khác biệt của đồ gốm Sarmatia được tìm thấy ở nhiều nơi tại phần bắc-trung của khu vực đồng bằng Đại Hungary, chỉ ra hoạt động thương mại sinh động. Bài báo gần đây về nghiên cứu các chuỗi hạt thủy tinh tìm thấy trong các mồ mả Sarmatia gợi ý về các mối liên kết văn hóa và thương mại.

Những người Sarmatia này có lẽ là người Iran có quan hệ bà con thân thuộc với người Scythia/người Saka. Hàng loạt các tên gọi cá nhân nguồn gốc tiếng Iran trong các chữ khắc Hy Lạp từ vùng duyên hải biển Đen chỉ ra rằng người Sarmatia ở đây nói thứ phương ngữ đông bắc Iran có liên quan tới tiếng Sogdiana và tiếng Ossetia.

Giống như người Scythia, người Sarmatia có bề ngoài của người dân vùng Kavkaz. Trước khi có sự xuất hiện của người Hung ở đây, người ta cho rằng chỉ rất ít cư dân thảo nguyên miền tây có các đặc trưng châu Á hoặc Turk-Mông Cổ.

Các bộ lạc đôi khi được coi là người Sarmatia

Dưới đây là danh sách các bộ lạc được các tác giả cổ đại khác nhau coi là thuộc dân tộc gọi là người Sarmatia, hoặc thuộc về lãnh thổ được coi là Sarmatia. Lưu ý rằng sự sáp nhập chính trị và sắc tộc của người Sarmatia cũng như lãnh thổ của họ dao động theo thời gian. Các tác giả không nhận dạng được toàn bộ các bộ lạc.

  • Abii, Achaei, Acibi, Agathyrsi, Agoritae, Alan (Alauni, Halani, Alanorsi), Alontae, Amadoci, Amaxobi, Amazones, Anartophracti, Antae, Aorsi (Adorsi, Alanorsi), Arichi, Arsietae, Asaei, Aspurgiani, Atmoni, Avarini
  • Basilici, Basternae, Biessi, Bosporani, Bodini, Borusci, Burgiones
  • Carbones, Careotae, Cariones, Carpians, Caucasii, Cercetae, Chaenides, Choroatos, Chuni, Cimmerians, Costoboci, Conapseni
  • Diduri
  • Exobygitae
  • Fenni (Tacitus không chắc chắn rằng Fenni là người Sarmatia hay người Đức)
  • Galactophagi, Galindae, Gelones, Gerri, Gevini, Venedae Lớn, Gythones
  • Hamaksoikoi, Heniochi, Hippemolgi, Hippophagi, Hippopodes, người Hyperborea, Horouathos hoặc Horouatos
  • Iaxamatae, Iazyges, Igylliones, Isondae
  • Materi, Melanchlaeni hoặc Melanchlani, Metibi, Modoca, Mysi
  • Nasci, Navari, Nesioti
  • Ombrones, Ophlones, Orinei, Osili, Ossi
  • Pagyritae, Perierbidi, Peucini, Piengitae, Phrungundiones, Phthirophagi, Psessi
  • Rheucanali, Rhoxolani
  • Saboci, Sacani, Saii, Sargati, Savari, Alani Scythia, Senaraei, Serboi, Sidoni, Siraces, Stavani, Sturni, Suani, Suanocolchi, Suardeni, Sudini, Sulones
  • Taïphali, Tanaitae, Tauroscythae, Thatemeotae, Tigri, Toreccadae, Transmontani, Tusci, Tyrambae, Tyrangitae
  • Udae
  • Vali, Veltae, Venedae, Vibiones
  • Zacatae, Zinchi

    Tên gọi

    Người ta luôn có thể tìm thấy các đề xuất của giả thuyết cho rằng có hai dân tộc khác biệt đã tồn tại, là người Sauromatae và người Sarmatae. Nó không là giả thuyết phổ biến, do cả hai dân tộc có thể đã dùng nhiều tên gọi bộ lạc như nhau. Ngoài ra, Jordanes, một giáo sĩ với kiến thức hỗ hợp cả Goth lẫn Sarmatia, thông báo rằng họ là một và rằng người Goth đã thay đổi tên của họ tại một số nơi thành người Sarmatia trước khi xâm chiếm.

Có một gợi ý trong Từ vựng thừa kế Ấn-Arya (IAIL) của Lubotsky trong CSDL Ấn-Âu (IED) thuộc Đại học Leiden rằng tên gọi có liên quan tới từ trong tiếng Avesta là zarəman-, "già, cũ". Nó cũng như là zar- xuất hiện trong Zarathustra. Ý nghĩa chính xác là chưa rõ ràng, nhưng các từ với gốc từ như thế có thể mang nghĩa "người nhiều tuổi hơn" và "không chết" (mặc dù rất già) hoặc của mặt trời hay lửa. Từ này có ưu thế là trong ngôn ngữ thích hợp nhất và có thể là nguồn của cả tiền tố Sar- lẫn Sauro-.

Avesta chứa các tham chiếu tới người __. Trong truyền thuyết của người này, ghi lại trong Shahnameh của Ferdowsi, "Salm" là một trong ba người con trai của Fereydun, và là tổ tiên của các dân tộc châu Âu.

Do tồn tại học thuyết cho rằng hậu duệ về mặt ngôn ngữ của người Sarmatia là người Ossetia (trái với các dữ liệu di truyền hoàn toàn không rõ vào thời đó), người ta có thể tính đến ba học thuyết sau về nguồn gốc tên gọi:

Dumezil: Oss: saw (đen) Scr: róman- (lông thú) + Oss: tae (dấu hiệu số nhiều)

Abaev: Oss: saw (đen) + Oss: arm (tay) + Oss: tae (dấu hiệu số nhiều)

Christol: *sarumant (người bắn cung) từ Scr: saru (mũi tên)

Gốc từ Ấn-Âu, là *ĝerh2- của Julius Pokorny, "già, cũ", mở ra một hướng nghiên cứu thú vị. Từ Hy Lạp, Latin Graeci, là từ cùng một gốc từ, bắt nguồn từ bộ lạc vùng Balkan ít người biết đến, Graioi, được người cổ đại coi là "những người già". In the area of Sauro-matae lived Ma-zurian. Nếu zur (zar -mặt trời) là tương tự như saur (sol -mặt trời) thì nó cũng liên quan tới nước dựa vào 'zur niesiemy zur', vedi vodi hoặc (sola sla). Graroi, với ż<>g<>h có thể liên quan tới Żaroi, Graroi Haroy Harian, Hurian hoặc thậm chí Hunga ngày nay vẫn còn được hát như là Ha'Hary, So sánh tiếng kêu hò trong chiến trận Hurra của người từ khu vực này. Sarmatia là tương đương satem của centum Hy Lạp. Cần lưu ý rằng Αέρα (Aera) là tiếng kêu hò trong chiến trận tiếng Hy Lạp còn đến ngày nay. Sự tương đồng căn nguyên đòi hỏi có từ satem gốc trong tiếng Tiền Ấn-Âu. Mối liên hệ như vậy là lý thuyết tại thời điểm hiện nay.

Hàng loạt tên gọi cá nhân tiếng Iran trong các chữ khắc Hy Lạp từ vùng duyên hải biển Đen chỉ ra rằng người Sarmatia nói phương ngữ tiếng Đông Bắc Iran, tổ tiên của tiếng Ossetia (xem tiếng Scyth-Sarmatia).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
Trại của người Hung. **Người Hung** là một nhóm người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu
phải|Bản đồ vương quốc Ostrogoth bao gồm Italia và vùng Balkan **Đông Goth** là một nhánh của người Goth (nhánh còn lại là Tây Goth), là một bộ tộc Đông Germanic đã đóng vai trò
thumb|Bản đồ của [[Dacia thuộc La Mã cho biết **Carpi** bao phủ khu vực giữa hai con sông Siret và Prut ở Moldavia (đông Rumani)]] **Người Carpi** hoặc **Carpiani** là một tộc người cổ đại
phải|nhỏ| Đồ gốm Sarmatia **Üllő5** là một địa danh khảo cổ nổi tiếng ở gần thị trấn Üllő, cạnh Thủ đô Budapest, Hungary. Công cuộc khai quật diễn ra từ năm 2002 đến năm 2006
**Người Alan** (La-tinh: _Alani_) là những người du mục gốc Iran thời cổ đại và thời trung cổ đã di cư đến vùng Bắc Kavkaz ngày nay – trong khi một số tiếp tục tới
Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] **Người Vandal** là một bộ tộc Đông German,
Tượng của những người Dacia vượt qua [[Khải hoàn môn Constantinus]] **Người Daci**(; ; ) là một tộc người Ấn-Âu, có quan hệ rất gần hoặc là một nhánh của người Thracia. Người Daci là
**Valentinianus I** (; 321-17 tháng 11 năm 375), cũng gọi là **Valentinianus Đại đế**, Ông là Hoàng đế La Mã từ năm 364-375. Sau khi trở thành hoàng đế ông, em trai của ông hoàng
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
nhỏ|350x350px|_Trận chiến giữa [[người Slav và người Scythia_ — tranh của Viktor Vasnetsov (1881)]] Những người **Slav Sơ Khai** là một dân tộc bộ lạc đa dạng sống trong Thời kỳ di cư và Thời
**Goar** (sinh khoảng năm 390 – mất năm 446 hoặc 450) là thủ lĩnh người Alan ở xứ Gaul vào thế kỷ 5. Ông lãnh đạo người dân trong bộ tộc vượt qua sông Rhine
**Licinius I** (tiếng Latin: _Gaius Valerius Licinianus Licinius Augustus_ khoảng năm 263-năm 325), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 308 tới năm 324. Trong phần lớn khoảng thời gian triều đại
**P. C(assius?) Regalianus** (? - 260) là một viên tướng người Dacia đã khởi binh chống lại Đế quốc La Mã và tự mình xưng đế được một thời gian ngắn rồi sau bị thuộc
Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc của Kavkaz hiện đại - bản đồ của CIA **Tiếng Ossetia** (Ирон aвзаг, Iron ævzag hay Иронау, Ironau) là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ấn-Iran của Ngữ hệ Ấn-Âu
**Ingenuus** là một chỉ huy quân đội La Mã và đại diện triều đình (Legatus) ở Pannonia, về sau trở thành kẻ soán ngôi vị của Hoàng đế Gallienus khi ông khởi binh nổi loạn
**Tỉnh Zaporizhzhia** (, hay ), là một tỉnh (oblast) tại miền nam Ukraina. Tỉnh có diện tích là , và dân số là . Tỉnh được hình thành vào năm 1939 khi tách từ tỉnh
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Các cuộc chiến tranh Marcomanni** (thường được người La Mã biết đến với tên gọi "Chiến tranh với người German và Sarmatia" - _Bellum Germanicum et Sarmaticum_) là một loạt các cuộc chiến tranh kéo
**Nhóm ngôn ngữ Đông Iran** là một nhóm con của ngữ chi Iran nổi lên trong thời Iran Trung cổ (từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên). Tiếng Avesta thường được phân loại là
**Sông Dnister** hay **sông Nistru** (, chuyển tự _Dnister_; ) là một con sông ở Đông Âu. ## Địa lý Nó bắt nguồn từ Ukraina, gần Drohobych, giáp biên giới với Ba Lan và chảy
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
Phạm vi gần đúng của Scythia và [[tiếng Scythia (màu da cam) trong thế kỷ 1 TCN.]] Trong thời kỳ cổ đại, **Scythia** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Σκυθία "Skythia") là một khu vực tại
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**_Rome: Total War: Barbarian Invasion_** (tạm dịch: _Rome: Chiến tranh tổng lực – Man tộc xâm lược_) là bản mở rộng đầu tiên của trò chơi máy tính thể loại chiến lược theo lượt và
nhỏ|phải|Đồng tiền xu này được hoàng đế La Mã [[Gallienus phát hành để tôn vinh V _Macedonica_. Dòng chữ khắc trên mặt trái đọc là LEG V MAC VI P VI F, nghĩa là "Legio
**Carus** (; 224 – 283), là Hoàng đế La Mã từ năm 282 đến 283. Trong thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình, Carus đã thành công khi tiến hành thảo phạt các bộ
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Đế quốc Bulgaria thứ nhất** (, Latin hoá: _blŭgarĭsko tsěsarǐstvije_ ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga,
thumb|upright=1.6|Nơi định cư của tộc Therving và Greuthungi năm 376 Giữa năm 376 và 382 **Chiến tranh Gothic** chống lại Đế quốc Đông La Mã, và đặc biệt là Trận Adrianople, thường được coi là
thumb|Budjak trên bản đồ Ukraina thumb|Pháo đài [[Bilhorod-Dnistrovskyi của Moldavia từ thế kỷ 14 tại Budjak.]] **Budjak** hay **Budzhak** (; ), là một khu vực có tính lịch sử tại Ukraina và Moldova. Khu vực
thumb|Tỉnh Zakarpattia (màu đậm), phía tây Ukraina. thumb|Huy hiệu của Karpat-Ukraina, hiện được [[tỉnh Zakarpattia sử dụng.]] **Ruthenia Karpat** () là một vùng lịch sử trên ranh giới giữa Trung và Đông Âu, hiện nay
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius ​​Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I
**_Total War: Rome II_** (tạm dịch: _Chiến tranh tổng lực: La Mã 2_) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt sắp tới do
**Gallienus** (; 218 – 268) là Hoàng đế La Mã với cha mình Valerianus từ năm 253 đến 260 và một mình từ năm 260 đến 268. Ông đã cai trị trong cuộc khủng hoảng
**Maximinus Thrax** (; 173 – 238), còn được gọi là _Maximinus I_, là Hoàng đế La Mã từ năm 235 đến 238. Maximinus được mô tả bởi một số nguồn tài liệu cổ xưa, dù
nhỏ|Hộp mái dốc (_châsse_) [[Nghệ thuật Gothic|Gothic; 1185–1200; men khảm trên đồng thếp vàng; cao 17,7 cm, rộng 17,4 cm, sâu 10,1 cm; Louvre-Lens, Lens, Pháp.]] nhỏ|Đĩa [[Nghệ thuật Trung Quốc|Trung Hoa với miệng hình
**Alaunt** là một giống chó đã tuyệt chủng, với giống gốc đã từng tồn tại ở Trung Á, Afghanistan và châu Âu từ thời cổ đại đến thế kỷ 17. Giống chó Alaunt có ba
**Legio vigesima prima rapax** (**quân đoàn thú săn mồi thứ hai muơi mốt**) là một quân đoàn La Mã được Augustus thành lập vào năm 31 trước Công nguyên, có thể là từ những người
nhỏ|phải|Kurgan [[người Sarmatia khoảng thế kỷ 4 trước Công guyên, Fillipovka, Nam Urals, Nga.]] nhỏ|Đồi mộ [[Người Thracia|người Thracia gần Pomorie, Bulgaria]] nhỏ|Sơ đồ mặt cắt ngang của kurgan **Kurgan** là thuật ngữ Turkic cho
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
**Mindaugas** (, , , , (1203 - 1263) là người đầu tiên được biết đến như là Đại công tước Litva và Vua của Litva. Ít được biết về nguồn gốc, thời thơ ấu, hoặc
thumb|Chiến dịch của quân Goth vào năm 250-251. **Cniva** (**Kniwa**, có nghĩa là "con dao") (? - ?) là thủ lĩnh người Goth đã xâm lược Đế quốc La Mã vào khoảng giữa thế kỷ
**Kalmius** (, ) là một trong hai sông chảy qua thành phố Mariupol của tỉnh Donetsk tại Ukraina, cùng với phụ lưu Kalchik của nó. Sông Kalmius chảy vào biển Azov gần tổ hợp sản
**Bán đảo Taman** (tiếng Nga: Таманский полуостров) là một bán đảo ở ngày nay thuộc vùng Krasnodar của Nga. Nó có ranh giới về phía bắc là biển Azov, phía Tây giáp eo biển Kerch
Đây là bài viết liệt kê các Lữ đoàn _Auxilia_ Đế quốc La Mã tồn tại trong thế kỷ thứ hai CN (là niên đại có nhiều tư liệu thuyết phục nhất). Các Lữ đoàn
**Legio quarta decima Gemina** (**Quân đoàn đôi thứ mười bốn**) là một quân đoàn của đế quốc La Mã, nó được Julius Caesar thành lập vào năm 57 trước Công nguyên. Tên riêng _Gemina_ của