✨Constantius II

Constantius II

Constantius II (tiếng Latinh: Flavius ​​Julius Constantius Augustus; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I và Fausta, ông lên ngôi với anh trai Constantinus II và em trai Constans khi cha mình qua đời.

Năm 340, anh em Constantius xung đột trên khắp các tỉnh phía tây của đế quốc. Cuộc xung đột để lại kết quả là Constantinus II qua đời và Constans cai trị của phương Tây cho đến khi ông bị lật đổ và ám sát năm 350 bởi kẻ cướp ngôi Magnentius. Không muốn chấp nhận Magnentius là đồng cai trị, Constantius hành quân chống lại ông. Magnentius đã bị đánh bại tại trận Mursa chính và trận Mons Seleukos, ông ta tự sát sau này. Điều này khiến Constantius là vị vua duy nhất của đế quốc.

Các chiến dịch quân sự tiếp theo của ông chống lại các bộ lạc Đức đã thành công: ông đã đánh bại người Alamanni năm 354, và chiến dịch trên sông Danube chống lại người Quadi và Sarmatia năm 357. Tương phản với ở phía đông, cuộc chiến hai thập kỷ cũ chống lại người Sassanids tiếp tục với kết quả khác nhau.

Như một hệ quả của sự khó khăn trong việc quản lý toàn bộ đế chế, Constantius phong cho hai anh em họ của mình lên chức Caesar. Constantius Gallus, người con trai của người chú cùng cha với Constantius, Julius Constantius, được tấn phong năm 351, nhưng đã bị hành quyết ba năm sau đó được cho là tính tàn bạo và tham nhũng của ông. Constantius sau đó tấn phong cho người em cùng cha với Gallus, Julianus, Người duy nhất còn lại của triều đại Constantius và người cuối cùng sẽ kế vị ông, trong năm 355.

Tuy nhiên, những hành động của Julianus khi tuyên bố lên làm Augustus trong năm 360 đã dẫn đến cuộc chiến tranh giữa hai người. Cuối cùng, không bao giờ có một trận đánh bởi vì Constantius đã ngã bệnh và qua đời vào cuối năm 361.

Thời niên thiếu

nhỏ|trái|Sự phân chia đế quốc La Mã bởi các ceasar do Constantinus Đại đế phong lần lượt từ Tây sang Đông: Constantinus II, Constans I, [[Dalmatius và Constantius II. Sau cái chết của Constantinus I, đây là sự phân chia trên thực tế của của đế quốc La Mã cho đến khi Dalmatius bị giết chết và phần lãnh thổ của ông được chia giữa Constans I và Constantius II.]] Constantius sinh năm 317 tại Sirmium, Pannonia. Ông là con trai thứ ba của Constantinius Đại đế, và là thứ hai của Fausta người vợ thứ hai của ông ta, con gái của Maximianus. Constantius đã được phong làm Caesar bởi cha ông vào ngày 13 tháng 11 năm 324.

Khi cha ông qua đời ở Constantinopolis vào ngày 22 Tháng Năm năm 337, Constantius là người con trai gần nhất của ông đến thành phố đó. Mặc dù đang tiến hành chiến dịch tại các tỉnh miền Đông, ông ngay lập tức quay trở lại thành phố để giám sát đám tang của cha mình.

Vai trò của Constantius trong vụ thảm sát người thân của ông vốn là hậu duệ của những cuộc hôn nhân thứ hai của ông nội Constantius Chlorus và Theodora là không rõ ràng Eutropius, khi viết về giai đoạn giữa năm 350 và 370, viết rằng Constantius chỉ xử phạt "những việc làm, hơn là chỉ đạo nó " Tuy nhiên, Eutropius là thù địch với Constantius -. ông là một người bạn của Julianus - Người em họ của Constantius và cuối cùng là kẻ thù của ông. Constantius, anh trai ông Constantinius II, em trai của ông Constans, và ba người anh em họ Gallus, Julian và Nepotianus là những hậu duệ còn sót lại của Constantinus Đại đế.

Tại Hội nghị tại Sirmium không lâu sau vụ thảm sát, ba anh em tiếp tục phân chia đế chế La Mã trong số họ, theo ý muốn của người cha. Constantius nhận được các tỉnh miền đông, trong đó có Ai Cập, Syria, Thrace, và Tiểu Á. Constantinius II nhận được Britannia, Gaul, Hispania, và Mauretania. Constans, mặc dù ban đầu dưới sự giám sát của Constantinius II, đã nhận được Ý, châu Phi, Illyricum, Pannonia, Macedonia, và Achaea.

Cai trị phía đông

trái|nhỏ|321x321px|Missorium (đĩa bạc hoàng gia) từ Kerch mô tả Constantius II đang cầm giáo trên lưng ngựa chiến. Hộ tống ông là các thành viên thuộc đội cận vệ cùng với các biểu tượng chiến thắng. nhỏ|phải|Đồng xu của Constantius II khi kỉ niệm 15 năm cai trị.

Có ít thông tin về những năm đầu của triều đại Constantius ở các tỉnh phía đông. Ông đã dành hầu hết thời gian bảo vệ biên giới phía đông chống lại cuộc xâm lược của đế quốc Sassanid hiếu chiến dưới thời vua Shapur II. Những mâu thuẫn chủ yếu giới hạn ở những cuộc bao vây của Sassanid nhằm vào những pháo đài chính của La Mã ở Lưỡng Hà, bao gồm Nisibis (Nusaybin), Singara, và Amida (Diyarbakir). Mặc dù Shapur dường như có được chiến thắng trong hầu hết các cuộc đối đầu, người Sassanids đã có thể giành được rất ít. Tuy nhiên, người La Mã đã giành một chiến thắng quyết định trong trận Narasara, giết chết anh trai của Shapur, Narses. Cuối cùng, Constantius đã có thể đẩy lùi cuộc xâm lược, Shapur không giành được bất kỳ lợi ích đáng kể nào

Cuộc chiến với Magnentius

nhỏ|Xu bằng đồng cuả Constantius II (337-361) được tìm thấy tại [[Karghalik, nay thuộc Trung Quốc.]]

Sự tồn tại của nhà nước mới này là không thể chấp nhận được với Constantius, người cảm thấy rằng mình là con trai duy nhất còn sống của Constantinus Đại đế, vị trí của hoàng đế chỉ dành duy nhất cho bản thân mình . Ông đã quyết định viễn chinh về phía tây đế quốc để chống lại kẻ cướp ngôi này.

Tổ tiên

**Ancestors of Constantius II**
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius ​​Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I
**Flavius Claudius Constantinus**, tiếng Anh hiểu là **Constantine II** là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã (trị vì:337-340). Constantinus II là con trai cả của Constantine Đại đế và hoàng hậu Fausta.
**Shapur II** (tiếng Ba Tư trung đại: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩 **Šāhpuhr**), hay **Shapur II Đại đế** (tiếng Ba Tư: شاپور دوم بزرگ), là vị vua thứ mười của Đế quốc Sassanid. Ông là vị vua trị vì
**Flavius Constantius** (? – 421) còn được biết đến với tên gọi **Constantius III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì trong vòng bảy tháng vào năm 421. Là nhà chính trị và là
**Flavius Valerius Constantius** (khoảng ngày 31 tháng 3 năm 250-25 tháng 7 năm 306), thường được gọi là Constantius I hoặc Constantius Chlorus, là Hoàng đế La Mã giai đoạn năm 293-306. Ông là cha
**Severus** (); (? – 307) đôi khi còn được gọi là **Severus II**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 306 đến 307. ## Tiểu sử Severus xuất thân từ tầng lớp
nhỏ|phải|[[Giáo hoàng đối lập Felix II]] Giáo hoàng đối lập **Felix II** là được xem như một Giáo hoàng vào năm 355 sau khi Hoàng đế Constantinus II đưa đi lưu đày Giáo hoàng Liberius
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
**Vetranio** (? – 356), (đôi lúc bị phát âm thành **Vetriano**) là Hoàng đế La Mã trị vì từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 25 tháng 12 năm 350, không rõ năm sinh của
**Flavius ​​Magnus Magnentius** (303-11 tháng Tám, 353) là một kẻ cướp ngôi của Đế chế La Mã (18 tháng Giêng,năm 350-11 tháng Tám, năm 353). ## Khởi nghiệp Ông sinh ra tại Samarobriva (Amiens), Gaul,
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Valentinianus I** (; 321-17 tháng 11 năm 375), cũng gọi là **Valentinianus Đại đế**, Ông là Hoàng đế La Mã từ năm 364-375. Sau khi trở thành hoàng đế ông, em trai của ông hoàng
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Trận cầu Milvius** là trận đánh diễn ra giữa hai hoàng đế La Mã Constantinus I và Maxentius vào ngày 28 tháng 10 năm 312. Trận chiến này được đặt theo tên của cây cầu
Ngày **1 tháng 3** là ngày thứ 60 (61 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 305 ngày trong năm. ## Sự kiện * 293 – Hoàng đế Diocletianus và Maximianus bổ nhiệm Constantius Chlorus
Ngày **25 tháng 12** là ngày thứ 359 (360 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 6 ngày trong năm. ## Sự kiện *36 – Sau khi Công Tôn Thuật tử chiến vào hôm trước,
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
nhỏ|Hagia Sophia nhìn từ bên ngoài Hagia Sophia, Istanbul **Hagia Sophia** (tiếng Hy Lạp: Ἁγία Σοφία, "Sự khôn ngoan của Thiên Chúa", tiếng Latinh: _Sancta Sapientia_, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Ayasofya_) ban đầu là một
**Công đồng Nicea thứ nhất** là công đồng gồm những Giám mục Kitô giáo được triệu tập tại Nicea thuộc xứ Bithini (ngày nay là xứ Iznik của Thổ Nhĩ Kỳ) bởi Hoàng đế La
**Gratianus** (; 18 tháng 4 năm 359 - 25 tháng 8 năm 383), là Hoàng đế La Mã từ năm 375-383. Ông là con trai cả của Valentinianus I, trong suốt thời niên thiếu của
Ngày **9 tháng 9** là ngày thứ 252 (253 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 113 ngày trong năm. ## Sự kiện *9 – Tù trưởng Arminius lãnh đạo sáu bộ lạc Germain tiến
**Jovianus** (tiếng Latin: _Augustus Flavius ​​Jovianus_; 331-17 tháng 2 năm 364), là Hoàng đế La Mã từ năm 363-364. Sau cái chết của hoàng đế Julianus trong chiến dịch chống lại người Ba Tư, Jovianus
nhỏ|Biểu tượng Hy Lạp [[Theotokos, _Suối nguồn sự sống_.]] **Suối nguồn sự sống** (Tiếng Hy Lạp: Ζωοδόχος Πηγή, Zoodochos Pigi,Tiếng Nga: Живоносный Источник) là một danh hiệu dành cho Theotokos (Mẹ Thiên Chúa). Danh hiệu
Ngày **28 tháng 4** là ngày thứ 118 (119 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 247 ngày trong năm. ## Sự kiện * 224 – Ardashir I đánh bại và giết được Artabanus IV
Ngày **19 tháng 2** là ngày thứ 50 trong lịch Gregory. Còn 315 ngày trong năm (316 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *197 – Hoàng đế La Mã Septimius Severus đánh bại Clodius
**Yemen** (; ), quốc hiệu là **Cộng hòa Yemen** () là một quốc gia nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía nam bán đảo Ả Rập. Yemen là quốc gia lớn thứ hai trên
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
**Maride** là lâu đài ở Mesopotamia, được đề cập bởi Ammianus Marcellinus (Ammian. xviii. 6), trong Constantius II. Maride hiện tại giống như Mardin, Thổ Nhĩ Kỳ.
**Athanasiô thành Alêxanđria** ( _Athanásios Alexandrías_) (khoảng 296-298 – 2 tháng 5 năm 373), cũng được gọi là Thánh **Athanasiô Cả**, Thánh **Tuyên tín giả Athanasiô** hay trong cách gọi của Giáo hội Chính Thống
**Sextus Aurelius Victor** (khoảng 320 – khoảng 390) là một sử gia và chính khách sống dưới thời Đế quốc La Mã. Ông chính là tác giả của bộ La Mã sử lược nhan đề
**Thành phố cổ Damascus** là trung tâm của thành phố Damascus, Syria. Đây là một trong những thành phố cổ có người ở liên tục lâu đời nhất thế giới, là nơi chứa nhiều di
nhỏ|296x296px| Tranh khảm Byzantine là một trong những tác phẩm lừng danh còn sót lại của [[Hagia Sophia ở Constantinople - chân dung của Christ Pantocrator trên các bức tường của phòng trưng bày phương
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Flavius Placidius Valentinianus** (2 tháng 7, 419 – 16 tháng 3, 455), được biết đến với tên gọi là **Valentinianus III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 425 đến 455. ##
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
**Liberius** (Tiếng Việt: Libêriô; Tiếng Anh: Liberius) là người kế nhiệm Giáo hoàng Julius I và là vị Giáo hoàng thứ 36 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**Zerco** hoặc **Zercon** (410/420 ở Mauretania - nửa sau thế kỷ thứ 5 ở Constantinopolis?) là chú lùn người Moor và là kẻ pha trò của _magistri militum_ Aspar và Aetius cùng mấy vị vua
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
**Quintillus** (; 220 – 270), là Hoàng đế La Mã ở ngôi được gần một năm vào năm 270. ## Tiểu sử ### Gia thế Quintillus sinh ra tại Sirmium ở vùng Hạ Pannonia vào