✨Galerius

Galerius

Galerius (tiếng Latin: Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều đại của mình, ông đã tiến hành chiến dịch chống lại Đế chế Sassanid, với sự trợ giúp của Diocletianus, và cướp phá kinh đô Ctesiphon của họ vào năm 299. Ông cũng tiến hành chiến dịch chống lại người Carpi ở phía bên kia bờ sông Danube, đánh bại họ vào năm 297 và trong năm 300. Mặc dù là một người đối nghịch mạnh mẽ với Kitô giáo, nhưng chính Galerius đã kết thúc cuộc bức hại do Diocletianus khởi xướng qua việc ban hành một sắc lệnh khoan dung vào năm 311.

Đầu đời

Galerius đã được sinh ra ở Serdica, mặc dù một số học giả hiện đại xem xét địa điểm chiến lược nơi sau này ông cho xây dựng một cung điện mang tên người mẹ của ông - Felix Romuliana (Gamzigrad) - nơi sinh và nơi chôn cất ông Cha ông là một người Thracia và mẹ ông, Romula là một phụ nữ Dacia, bà đã rời bỏ Dacia vì các cuộc tấn công của người Carpi Ban đầu ông nối nghiệp cha mình, đó là một người chăn bò, mà nhờ đó ông đã nhận được tên họ của mình, Armentarius (tiếng Latin: armentum).

Ông đã phục vụ trong quân đội dưới triều đại của hoàng đế Aurelianus và Probus. Trong năm 293, khi chế độ Tứ Đầu chế được thiết lập, ông đã được chỉ định là Caesar cùng với Constantius Chlorus,và cưới con gái của Diocletianus, Valeria (sau này được biết là Galeria Valeria), và cùng thời điểm đó, ông được trao quyền cai quản các tỉnh Illyria. Sau một vài năm tiến hành các chiến dịch chống lại người Sarmatia và người Goth trên khu vực sông Danube, ông đã được giao quyền chỉ huy các quân đoàn trên biên giới phía đông của đế quốc. Ngay sau khi được bổ nhiệm, Galerius được phái tới Ai Cập để dập tắt cuộc khởi nghĩa ở các thành phố Busiris và Coptos.

Cuộc chiến tranh với Ba Tư

Xâm lược và phản công

Năm 294, Narseh, người con trai vốn không được kế vị ngai vàng nhà Sassanid của vua Shapur I, đã cướp ngôi vua Ba Tư. Narseh có thể đã sát hại vua Bahram III, vốn còn quá trẻ khi được một quý tộc tên là Vahunam đưa lên ngai vàng ngay sau khi vua Bahram II qua đời vào năm 293 Nhà sử học cổ đại Ammianus Marcellinus là tác giả duy nhất duy nhất đề cập một cách chi tiết về cuộc xâm lược Armenia lúc ban đầu này Southern(1999, 149) đặt thời điểm cho cuộc xâm lược là vào năm 295; Barnes (1982, 17, 293) đề cập đến một cuộc xâm lược khác sớm hơn, một cuộc xâm lược không thành công của Narseh dựa trên thực tế rằng tiêu đề Persici Maximi đã được trao cho tất cả bốn vị hoàng đế; Odahl (2004, 59) đồng tình với Barnes và cho rằng các vị hoàng tử Saracen trong sa mạc Syria đã hợp tác với cuộc xâm lược của Narseh. Narseh sau đó di chuyển về phía nam tiến vào vùng Lưỡng Hà của La Mã, tại nơi đó ông ta đã đánh cho Galerius thua hết lần này tới lần khác, mà vào lúc đó Galerius lại đang chỉ huy của các đạo quân phía Đông, ở khu vực giữa Carrhae (Harran, Thổ Nhĩ Kỳ) và Callinicum (Ar-Raqqah, Syria). Diocletianus lúc đó có thể có hoặc không có mặt tại mặt trận,

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Flavius Valerius Constantius** (khoảng ngày 31 tháng 3 năm 250-25 tháng 7 năm 306), thường được gọi là Constantius I hoặc Constantius Chlorus, là Hoàng đế La Mã giai đoạn năm 293-306. Ông là cha
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Gamzigrad** (, ) là một địa điểm khảo cổ, khu nghỉ dưỡng spa và di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại phía nam sông Danube, gần thành phố Zaječar, Serbia. Đây là
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Maxentius** (tiếng Latin: _Marcus Aurelius Valerius Maxentius Augustus_, khoảng năm 278-28 Tháng Mười năm 312) là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 306 tới năm 312. Ông là con trai của cựu
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Severus** (); (? – 307) đôi khi còn được gọi là **Severus II**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 306 đến 307. ## Tiểu sử Severus xuất thân từ tầng lớp
**Trận cầu Milvius** là trận đánh diễn ra giữa hai hoàng đế La Mã Constantinus I và Maxentius vào ngày 28 tháng 10 năm 312. Trận chiến này được đặt theo tên của cây cầu
Thuật ngữ **Tứ đầu chế** (từ tiếng Hy Lạp τετραρχία có nghĩa là _bốn người cai trị_) mô tả bất kỳ hình thức chính phủ nào mà quyền lực được phân chia cho bốn cá
**Marcellinô I** (Latinh: **Marcellinus I**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Caius và là vị Giáo hoàng thứ 29 của giáo hội công giáo. Năm sinh và nơi sinh của ông không được xác định
**Licinius I** (tiếng Latin: _Gaius Valerius Licinianus Licinius Augustus_ khoảng năm 263-năm 325), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 308 tới năm 324. Trong phần lớn khoảng thời gian triều đại
**Maximinus II** () (270 – 313), còn được gọi là **Maximinus Daia** hoặc **Maximinus Daza** là Hoàng đế La Mã trị vì từ năm 308 đến 313. ## Tiểu sử Maximinus sinh vào ngày 20
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
Ngày **5 tháng 5** là ngày thứ 125 (126 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 240 ngày trong năm. ## Sự kiện *1260 – Dưới sự ủng hộ của một bộ phận tông vương
Ngày **1 tháng 3** là ngày thứ 60 (61 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 305 ngày trong năm. ## Sự kiện * 293 – Hoàng đế Diocletianus và Maximianus bổ nhiệm Constantius Chlorus
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Serbia** (phiên âm là _Xéc-bi_ hay _Xéc-bi-a_, , phiên âm là _Xrơ-bi-a_), tên chính thức là **Cộng hòa Serbia** () là một quốc gia nội lục thuộc khu vực đông nam châu Âu. Serbia nằm
**Jovianus** (tiếng Latin: _Augustus Flavius ​​Jovianus_; 331-17 tháng 2 năm 364), là Hoàng đế La Mã từ năm 363-364. Sau cái chết của hoàng đế Julianus trong chiến dịch chống lại người Ba Tư, Jovianus
**Marcellô I** (tên tiếng Latinh: **Marcellus I**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Marcellinus, và là vị Giáo hoàng thứ 30. Ông được suy tôn như một vị thánh. Theo niên giám tòa thánh năm
**Aulus Vitellius Germanicus**, tên khai sinh là ** Aulus Vitellius** và thường được gọi là **Vitellius **(; ngày 24 tháng 12 năm 15-22 tháng 12 năm 69), là một hoàng đế La Mã trị vì
nhỏ|phải|Antoninus Pius **Titus Aurelius Fulvus Boionius Arrius Antoninus** (; ngày 19 tháng 9 năm 86 – 7 tháng 3 năm 161), thường được gọi theo tiếng Anh là **Antoninus Pius **,là hoàng đế La mã
**Năm 305** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện ### Tháng 5 * 1 tháng 5, Hoàng đế Diocletian và Hoàng đế đồng cai trị Maximian thoái vị. Galerius (250-311) và Constantius (250-306)
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Maximinus Thrax** (; 173 – 238), còn được gọi là _Maximinus I_, là Hoàng đế La Mã từ năm 235 đến 238. Maximinus được mô tả bởi một số nguồn tài liệu cổ xưa, dù
**Ctesiphon** ( _Tīsfūn_; ; , ; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭲𐭩𐭮𐭯𐭥𐭭 _tyspwn_ hay _tysfwn_, Hán-Việt: _Tích Phong_) là thủ đô của Đế quốc Parthia và Đế quốc Sassanid. Đó là một trong những thành
**Marcus Aurelius Sabinus Iulianus** (còn được gọi là Julianus xứ Pannonia; ? – 285/286) là một kẻ soán ngôi La Mã (283-285 hoặc 286) chống lại Hoàng đế Carinus hoặc Maximianus. Có tới bốn kẻ
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
nhỏ| Bức tranh _Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tuẫn đạo Cơ Đốc giáo_ do [[Jean-Léon Gérôme vẽ vào năm 1883.]] **Đế quốc La Mã** **đàn áp Cơ Đốc giáo** (chữ Anh: _Persecution
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Zosimos** ( ; còn được biết đến với cái tên Latinh là **Zosimus Historicus**, hay là "Zosimus Nhà sử học"; khoảng thập niên 490 – thập niên 510) là một sử gia gốc Hy Lạp
**Di tích Kitô giáo cổ và Byzantine của Thessaloniki** là tổ hợp gồm 15 công trình được UNESCO công nhận là Di sản thế giới nằm tại thành phố Thessaloniki, Macedonia, Hy Lạp. Thessaloniki là