✨Hẻm núi Sićevo

Hẻm núi Sićevo

Hẻm núi Sićevo (tiếng Serbia: Сићевачка клисура) của Serbia nằm ở thung lũng sông Nišava do dòng chảy cắt qua núi đá kiến tạo nên, giữa các nhánh phía bắc của núi Suva và các nhánh phía nam của dãy núi Svrljica. Cách thành phố Niš 14 km về phía đông, giữa làng Dolac ở thượng nguồn và làng Prosek ở hạ lưu. Hẻm núi dài khoảng 17 km hoặc 15,9 km, kết nối lưu vực Niš với lưu vực Belopalanche. Đây cũng là đường ngắn nhất nối miền trung và hạ Ponišavlja, hay giữa thượng và trung lưu sông Nišava.

Hẻm núi gồm hai đơn vị địa lý, phần trên là Hẻm Crnče-Gradište và phần dưới là hẻm Ostrovica. Phía trên từ Dolac đến Ostrovica hẹp, trong khi phần dưới là từ Ostrovica đến Prosek rộng và dốc thoải hơn. Hẻm núi được tạo thành bởi dãy núi Svrljica ở phía bắc và sườn núi Suva ở phía nam.

Song song với sông Nišava, hẻm núi có tuyến đường sắt (từ năm 1886-1887) và đường cao tốc liên vận (từ năm 1964). Đoạn đường sắt Nišava là một phần của tuyến đường sắt lớn trên thế giới (Luân Đôn - Paris - Beograd - Niš - Sofia - Istanbul). Đường cao tốc gồm tuyến chính E-80, nhánh phía đông của Hành lang 10, là một phần của tuyến đường lớn châu Âu (Salzburg - Zagreb - Beograd - Niš - Sofia - Istanbul) kết nối với Tiểu Á và các khu vực khác trên lục địa.

Do đặc điểm địa mạo và hệ động thực vật độc đáo, hẻm núi được ghi nhận là một công viên thiên nhiên, khu bảo tồn sinh thái đồng thời là một di sản văn hóa. "Công viên thiên nhiên Hẻm núi Sićevo" là một thắng cảnh, một địa điểm nghiên cứu địa chất, địa mạo và thủy văn. Nơi đây có đa dạng sinh học với nhiều loài đặc hữu, là môi trường sống của nhiều sinh vật quý hiếm đang trong tình trạng nguy cấp.

Hẻm núi có một phần diện tích khu tập trung dân cư 55,59 ha thuộc Niš ở phía bắc và bên kia bờ nam sông Nišava là 21,87 ha của Bela Palanka. nhỏ|318x318px| Bảng hiệu "Công viên thiên nhiên Hẻm núi Sićevo"

Hiện trạng

Với vẻ đẹp non nước hữu tình đồng thời nhằm bảo tồn các giá trị tự nhiên như địa mạo và hệ sinh thái độc đáo, hẻm núi Sićevo được công nhận là Công viên thiên nhiên Cấp độ 2

Là khu bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hóa quan trọng, hẻm núi Sićevo có sự đa dạng về địa chất, sinh học và cảnh quan hàng đầu Serbia, đáp ứng được các nhu cầu khoa học, giáo dục, văn hóa, du lịch và y tế cùng các hoạt động truyền thống khác theo nguyên tắc phát triển bền vững.

Đặc điểm tự nhiên

Tại rìa đông nam của lưu vực Niš, vết nứt kiến tạo địa lý cho phép quá trình karst điển hình. Khi địa hình lên cao hơn, phát hiện các dạng karst đá vôi bề mặt và bên trong. Vành đai phía đông là bình nguyên Kunovica rộng lớn có hình thái và cảnh quan đặc biệt do sông Nišava cắt vào hẻm. Giới hạn phía bắc là núi Suva, phía nam là núi Svrljica. Nếu không tính Hẻm Djerdap, đây là hẻm đá vôi dài nhất do nước kiến tạo ở Serbia. giữa|800x800px|Bình nguyên Kunovica có hình thái và cảnh quan đặc biệt trên lưu vực Niš, do sông Nišava cắt vào hẻm Sićevo

Vị trí và diện tích

Hẻm núi Sićevo minh chứng cho tác động của sông Nišava lên khu vực Kunovica khi chảy giữa hai sườn núi Suva và Svrljica. Hẻm Sićevo dọc theo dòng chảy chính Nišava từ đó đến các lưu vực Niš và Belopalanche. Các đảo nổi trên sông và thung lũng Nišava xác định cho hướng dòng chảy cắt vào địa tầng.

Hẻm núi Sićevo dài 17 km. Nơi hẹp nhất là khe Gradiška (canyon) có độ sâu 260–360 m dưới mực nước biển. Hẻm nối lưu vực Belopalanche ở phía đông với Hạ Ponišavlje ở phía tây. Hẻm được phân chia cấu trúc tại Ostrovica thành hai phần: phần trên dưới dạng khe canyon, còn phía dưới dạng hẻm gorge. Phần khe phía trên dài 7 km; được cắt giữa hai điểm Oblika (901) bên trái và Ples (1.327) bên phải. Lối vào khe là bên dưới ngôi làng Gradište (độ sâu 260 m) và lối ra ở Tu viện Thánh Petka Iverica (sâu 360 m). Nơi đó cũng là lối ra cấu trúc hẻm bên dưới thoải hơn rộng 50 m, rộng dần về phía dưới cho đến lối vào là 500–600 m. Các tầng thung lũng trong hẻm núi có dạng vòm cong.

Theo cách chia khác, hẻm núi Sićevo chia làm bốn đoạn ngược dòng từ Niš đến Bela Palanka: hai đoạn đầu thuộc hẻm dưới, đoạn thứ ba là lưu vực Ostrovica, đoạn thứ tư thuộc khe trên:

Đoạn đầu tiên - Kusaca

Phần hẻm này có tên Kusaca dài khoảng 5,4 km kéo dài từ cây cầu gần làng Prosek đến đập thủy điện gần làng Sićevo. Địa hình phía nam hẻm núi chủ yếu là dốc, và những vách đá dựng đứng bao quanh từ nam sang đông. Đỉnh Kusaca (771) được bao phủ bởi các cây thân gỗ như sồi, đoạn và trăn. Chính giữa Kusaca là Tu viện Đức Mẹ Đồng Trinh Sićevo có đồng cỏ và vườn nho bao quanh, mặt sau là rừng dày đặc. Phía bắc tương tự như phía nam, ở khu vực thấp hơn cũng là rừng và vườn nho. Điểm khác biệt ở Ječava (596) gần như là đồi trọc, cũng như các khu vực cao hơn thì còn chưa bị tác động. Từ năm 1970, nơi đây trở thành làng nghỉ dưỡng cuối tuần với hơn 300 nóc nhà, tiệm thủ công và nhà hàng.

Đoạn thứ ba - Lưu vực Ostrovica

Đoạn thứ ba dài 2 km còn được gọi là Lưu vực Ostrovica, bắt đầu từ Banjica và kéo dài đến cầu đường sắt qua sông Nišava, gần mỏ đá Ostrovica. Khúc sông Nišava chảy qua đoạn này được mở rộng, hai bên bờ chỉ hơi dốc. Hẻm núi được mở rộng và được phủ đầy cánh đồng, vườn nho và các vườn cây ăn trái.

Vết tích lâu đời nhất của hẻm Sićevo là từ thời Hậu Permi, khi đó vẫn nằm dưới lòng đại dương Tethys, liên quan đến quá trình tạo sơn Variscan. Các quá trình kiến tạo địa chất đã quyết định địa mạo thẩm thấu và lưu vực đá vôi của hẻm núi.

Khi đó đáy hồ xuất hiện tương ứng với độ cao 450–510 m hiện này, các quá trình lưu hóa và tạo dốc bắt đầu tác động lên mặt địa tầng. Do đó, hẻm Sićevo có đặc điểm chung nhất là hình thái bước nhảy thể hiện qua sự biến thiên địa hình từ các vùng bằng phẳng đến các sườn có độ dốc khác nhau.

Đặc điểm địa chấn học

Về mặt địa chấn học, hẻm núi Sićevo cùng dãy núi Suva là một trong những vùng chấn động ở Serbia. Phần địa lý này của Bán đảo Balkan nằm trong vành đai địa chấn Địa Trung Hải - Xuyên Á hoạt động rất mạnh. Các rung chấn đôi khi được phát hiện và lan truyền theo cấu trúc vành đai núi Suva và hẻm Sićevo, được biểu hiện trong các hiện tượng địa chấn như động đất cho đến các đặc điểm thủy văn của lớp nước ngầm và nước mặt cùng những thay đổi hình thái của lớp karst. Trong thế Cánh Tân, giai đoạn băng hà xen kẽ với các giai đoạn khí hậu ấm hơn. Biến đổi khí hậu này đã tác động lớn đến cường độ các quá trình lưu hóa và karst.

Sau thế Cánh Tân, khí hậu ấm hơn đáng kể khiến băng giá tan chảy là điều kiện ngoại sinh cho sông ngòi và độ ẩm cao hơn. Do đó, địa hình hẻm núi Sićevo được tương đối ổn định cho đến ngày nay.

Hẻm núi Sićevo ngày nay có khí hậu ôn đới lục địa đặc trưng.

Nhiệt độ hẻm núi Sićevo hàng năm đồng đều, thấp nhất vào tháng 1 khoảng -0,6 °C và cao nhất vào tháng 7 dao động từ 20-22 °C.

Hẻm núi Sićevo chịu ảnh hưởng của các cơn gió: gió bắc Kosava, gió Sićevo, Jugo và các gió tây bắc khác:

Bầu trời nhiều mây ở hẻm núi Sićevo chủ yếu do gió tây thổi tới. Độ mây che phủ thường cao nhất vào mùa đông và đạt cực đại 0,7-0,8 trong tháng 12, khi đó bầu trời dường như bị mây che kín. Độ mây che phủ giảm khi sang xuân và kéo dài đến tháng 9.

Tương tự như vậy ở hầu hết lãnh thổ Serbia, lượng tuyết rơi các năm gần đây cũng giảm. Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 ghi nhận mùa đông rất ít tuyết, có khả năng do biến đổi khí hậu toàn cầu.

Nước và đất

phải|nhỏ|295x295px|Nguồn nước chính của hẻm núi Sićevo là các tả lưu của sông Nišava Về mặt thủy văn, vùng nước mặt của hẻm núi Sićevo thuộc lưu vực Biển Đen, chảy vào Biển Đen qua sông Danube. Hẻm núi Sićevo ít nước do đặc tính thấm của đá vôi, lượng nước mưa ngấm xuống các lớp chứa nước bên dưới. Khi đá vôi bị chuyển hóa sang đá ngậm nước (chủ yếu là đá cát đỏ), nước phun trào thành các con suối phân bố dọc theo chiều dài hẻm núi. Một số nguồn suối có lượng nước đáng kể được khoanh vùng để cung cấp nước sinh hoạt cho các làng địa phương.

Tả lưu sông Nišava là nguồn nước chính chảy qua hẻm núi, gồm các nhánh: sông Crvena, sông Ostrovica, sông Kunovica và sông Jelašniča.

Hệ thống cấp nước khu vực Nišava (NIVOS) gồm các nguồn nước ở Ljuberadja, Divljana, Mokra và Krupac cung cấp nước sạch (uống được) cho toàn bộ các làng dọc theo hẻm núi đến tận Niš. Nước sạch đạt chất lượng cao và đáng tin cậy.

Định cư

Vào thế kỷ 15, sau các cuộc càn quét của quân Ottoman bình định Ponišavlje (vào các năm 1413, 1426, 1443-1444, 1454), sự hình thành và hồi phục các làng nông thôn ở hẻm núi Sićevo dừng lại vào cuối thế kỷ vì diễn ra di cư hàng loạt. Đây cũng là thời kỳ còn lưu lại những văn bản đầu tiên xác chứng về cộng đồng dân cư nơi này khi Đế quốc Ottoman tiến hành điều tra dân số và địa chính năm 1498 có liệt kê Kunovica, Jelašniča và Prosek. Sang đến thế kỷ 16, lần đầu tiên làng Gradište và Dolac được nhắc đến. Các làng khác không được nêu tên chính thức bằng văn bản cho đến thế kỷ 19 nhưng chắc chắn được hình thành trước và trong thế kỷ 18. lây lan từ Sofia và Pirot.

Vào thế kỷ 19, sự phân bố dân cư tại các làng trong hẻm núi Sićevo đã thay đổi đáng kể. Việc định hình lại lãnh thổ cũng như Nam Tư giải thể cũng làm giảm bớt dân số khu vực này vào nửa sau thế kỷ 20. nằm hoàn toàn trong khu vực hẻm núi. Còn lại 3 làng Dolac, Laniste và Jelašniča với 1.668 người chiếm 46,25% nằm lấn ra cả ngoài phần hẻm núi.

Kiến trúc đô thị và kiểu định cư trên núi ở hẻm núi Sićevo

Trong thế kỷ 20, các khu dân cư lâu đời tiếp tục được xây dựng bổ sung thêm mới theo nhịp điệu thời đại, bên cạnh nhà ở còn có các nhà phụ trợ như kho, nhà chứa nông cụ, xe cộ, chăn nuôi, lò sưởi riêng, v.v. Do đó, diện tích trống càng bị thu hẹp lại, một phần do các vách đá giới hạn không gian, nên mật độ xây dựng tăng cao đông đúc và chật chội hơn. Sau Thế chiến II, nhà cửa bắt đầu có kết cấu cải thiện rõ rệt: nhiều phòng hơn, thêm tầng, có mái hiên che,... làm từ vật liệu chắc chắn hơn (bê tông, ngói, xi măng, gạch, sắt). Các bãi đất bắt đầu quy hoạch thành vườn (có chuồng trại bao quanh) và phân tách rõ nơi riêng cho lao động sản xuất. Diện mạo kiến trúc nhà cửa khác xa so với loại nhà Nišava-Moravia truyền thống trước kia. giữa|nhỏ|800x800px|

Diện mạo kiến trúc nhà cửa ở hẻm núi Sićevo vào cuối thể kỷ 20 khác xa với kiểu nhà truyền thống Nišava-Moravia trước đó

Khu nghỉ dưỡng cuối tuần, điểm dừng chân tham quan

Dân cư ở hẻm núi Sićevo còn có kiểu tạm trú đã kéo dài hàng thế kỷ, tuy rằng trước đây chỉ liên quan đến việc chăn nuôi gia súc tạm thời. Cho đến thế kỷ 20, kiểu cư trú này có tầm quan trọng lớn đến nền kinh tế nông thôn tại đây. trái|nhỏ|295x295px| Một góc các khu nghỉ dưỡng được xây dựng ở hẻm núi Sićevo cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 Các khu nghỉ dưỡng cuối tuần nằm dưới chân núi Suva và Svrljica hoặc trên các sườn thung lũng Nišava trong phạm vi độ cao từ 220 m (Cemer) đến 420 m (Kurašnica). Các khu nghỉ dưỡng này được xây dựng ngay gần khu bảo tồn đẹp và có đường giao thông chạy tới đô thị trung tâm gần nhất là Niš. Mục tiêu là dần chuyển từ hình thức ở ngắn ngày (cuối tuần) phát triển thành khu dân cư sinh sống thường xuyên dài hạn. Việc theo dõi dân số mới có chủ yếu từ thời trung cổ, còn trước đó và kể cả về sau luôn gặp khó khăn cản trở bởi hoàn cảnh lịch sử và cách trở địa lý như chiến tranh tàn phá, di cư, định cư tạm thời,...

Các làng ở hẻm núi Sićevo thuộc đơn vị hành chính của đô thị Bela Palanka (lọt vào 40 đô thị kém phát triển nhất của Serbia) có cùng đặc điểm phát triển với quy mô gần giống như toàn cảnh đô thị này. Tình hình không khá hơn với các làng thuộc đô thị Niš tuy tổng thể thì Niš phát triển hơn. Hầu hết các hoạt động kinh tế chính diễn ra trong nội thành Niš và Bela Palanaka), nên đã thu hút dân cư hẻm núi Sićevo đến làm việc.

Sản xuất rượu vang là một nghề có từ hàng thế kỷ, chủ yếu tập trung ở Sićevo (năm 1924 đã có 960.000 gốc nho), Prosek và Ostrovica.

Nhà máy thủy điện đầu tiên Sveta Petka có công suất 0,60 MW đi vào vận hành từ 21 tháng 9 năm 1908, đã làm việc không ngừng hơn một trăm năm. Dân làng Sićevo và ngài Todor Milovanović, thị trưởng Niš về sau, chịu trách nhiệm xây dựng nhà máy thủy điện Sveta Petka. Họ thậm chí đã liên lạc nhà bác học Nikola Tesla làm kỹ sư thiết kế cho công trình này. Sveta Petka chỉ sau nhà máy thủy điện đầu tiên trên sông Niagara ở Hoa Kỳ có 13 năm. Niš nhờ đó mà lần đầu tiên có ánh sáng đèn điện. Giáo sư Aćim Stevović trường Đại học Khoa học kỹ thuật Beograd đã thiết kế đập nước, kênh dẫn nước và tòa nhà kỹ thuật, còn thiết bị lắp đặt được mua trọn bộ từ Đức và vẫn hoạt động cho đến ngày nay. Điện truyền đến Niš thông qua đường dây 8 kV dài 25 km.

Nhà máy thủy điện nhỏ thứ hai Sićevo được xây dựng gần cuối là phần dốc của hẻm núi, ngay dưới chân làng Sićevo. Từ nhà máy thủy điện Sveta Petka đi khoảng 6 km về phía hạ lưu là gặp đập nước của nhà máy thủy điện Sićevo. Nhà máy có công suất 1,35 MW là sự tiếp nối dựa trên nhu cầu lượng điện tiêu thụ của đô thị Niš sau khi Sveta Petka đi vào hoạt động. Dự án bắt đầu vào tháng 5 năm 1921, kỹ sư Dekler từ Viên được thuê đến để đo đạc địa hình và thu thập dữ liệu cần thiết cho Siemens-Schuckert thực hiện. Khởi công xây dựng vào ngày 8 tháng 10 năm 1928. Khi sắp hoàn thành thì trận lũ lớn mùa hè năm 1929 quét qua làm hỏng một phần công trình và cuốn hết nguyên vật liệu xây dựng. Năm 1930, một thảm họa tương tự lại xảy đến tiếp tục kéo dài thời gian thi công và tăng chi phí công trình. Năm 1931, cuối cùng nhà máy thủy điện Sićevo cũng được đưa vào thử nghiệm và chính thức hoạt động từ tháng 12 sau 2 năm chậm tiến độ, tổng là 9 năm từ khi mua thiết bị đầu tiên. Ngày nay, nhà máy thủy điện Sićevo vẫn hoạt động tốt, là một phần không thể thiếu của ngành Điện lực Serbia.

**Cơ sở hạ tầng nhà máy thủy điện Sićevo trong hẻm núi**

Động thực vật

Mặc dù có địa hình hẹp và mặt đá vôi trơ trọi nhìn có vẻ khắc nghiệt nhưng hẻm núi Sićevo có tầm quan trọng rất lớn trong việc bảo tồn các loài hoa có từ kỷ Đệ tam. Vì đặc tính trước tiên là môi trường tổng thể ở hẻm núi ở trạng thái bảo tồn nguyên trạng. Một điều kiện chung khác của các hẻm núi ở miền trung Ponišavlje có nhiệt độ trung bình ấm hơn các hẻm núi khác ở Serbia, do mặt phía nam nóng hơn hẳn vào ban ngày. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất với hẻm núi Sićevo là được các dãy núi che chắn nên độ ẩm tương đối cao hơn môi trường xung quanh. Yếu tố này giảm bớt ảnh hưởng của các điều kiện bất lợi như băng giá, gió, hạn hán và cũng khiến cho sương mù xảy ra thường xuyên hơn và kéo dài lâu hơn. Mật độ sương mù dày vào sáng sớm là biểu hiện của độ ẩm cao. Sự xuất hiện của các loài thực vật miền Địa Trung Hải minh chứng cho điều này, đây là các loài thích nghi với khí hậu hẻm núi có độ ẩm cao.

**Đa dạng các loài hoa ở hẻm núi Sićevo**
giữa|nhỏ|600x600px|
Hẻm núi Sićevo đa dạng về các loài hoa đặc trưng thích nghi với khí hậu khác biệt, phong phú từ vách đá cho đến dọc bờ sông Nišava

Hệ thực vật

Nằm trong sự phong phú đa dạng các loài hoa, hẻm núi Sićevo cũng ghi nhận 68 loài thực vật đặc hữu gồm cả một số loài đặc hữu bản địa. Nghiên cứu ra rằng có ba loài thực vật chỉ tìm thấy ở hẻm núi, có khả năng đã biến mất hoàn toàn tại các vùng khác trên lãnh thổ Serbia. Có 20 loài nguy cơ tuyệt chủng (CR), 30 loài nguy cấp (EN), 80 loài dễ thương tổn (VU), 125 loài nguy cơ thấp và 9 loài không có đủ dữ liệu đánh giá.

Trong số các loài kỷ Đệ tam đang bị diệt vong của hệ thực vật châu Âu chỉ còn phát hiện ở hẻm núi Sićevo có hai loài thuộc chi Ramonda (Ramonda serbica, Ramonda nathaliae) và xô thơm Salvia officinalis (một trong những cây thuốc lâu đời nhất). Các cây này có lẽ nguồn gốc từ châu Phi, mang đặc tính của thực vật cận nhiệt ở châu Âu và Địa Trung Hải. Ramonda serbica rất gần gũi với Ramonda nathaliae và có thể phát sinh thành loài riêng biệt do đa bội hóa. Mật độ Ramonda trong hẻm núi tính trên diện tích 5 m² thay đổi từ 10-350 cá thể tùy thuộc vào cấu trúc đất đá và thảm thực vật. Sự hiện diện của cây xô thơm được giải thích là do điều kiện sống trong "ốc đảo Địa Trung Hải" tương tự giá trị sinh thái lịch sử của loài cây này cũng như các thực vật ưa nhiệt khác.

**Đại diện các loài rắn ở hẻm núi Sićevo**

Thống kê cho thấy hẻm núi Sićevo có hơn 100 loài chim, trong đó 75 loài chim làm tổ. Các loài được quan tâm trên trường quốc tế như loài cú lớn nhất thế giới (cú đại bàng Bubo bubo) và 32 loài chim hiếm khác như các loài chim làm tổ: diều ăn ong (Pernis apivorus), đại bàng vàng (Aquila chrysaetos), cắt lớn (Falco peregrinus), cắt ngón ngắn (Accipiter brevipes), diều rắn (Circaetus gallicus), cú mèo (Otus scops), đớp ruồi Địa Trung Hải (Oenanthe hispanica), gà so xám (Perdix perdix), gà gô đá (Alectoris graeca), cu rừng (Columba palumbus, Columba oenas), cu gáy (Streptopelia turtur, Streptopelia decaocto), quạ thông (Garrulus glandarius), gõ kiến xanh (Picus viridis), gõ kiến (Picidae), cút (Coturnix coturnix), ngoài ra cũng quan sát được vịt trời và ngỗng trời vào mùa đông. Theo một số nghiên cứu của Kostić "ngày nay hiện trạng suy giảm đáng kể do nạn phá rừng, xây dựng và khai thác mỏ".

Một số loài chim quý hiếm ở hẻm núi Sićevo

Gần đây, một loài có nguy cơ tuyệt chủng là kền kền (Neophron percnopterus) đã xâm nhập hẻm núi từ hướng Mosor, một đỉnh của dãy Suva. Hẻm núi cũng là nơi làm tổ cuối cùng của các loài cắt đang gặp nguy cấp tại Serbia. Các vùng cao của hẻm núi từng là khu sinh sản lớn nhất của gà gô đá (Alectoris graeca) ở Serbia, ngày nay hiếm hơn nhiều. Khu vực làm tổ của én Anpơ (Apus melba) cũng là một điểm đặc biệt tại đây.

Vì vậy, dấu vết của văn hóa vật chất trong hẻm núi Sićevo có thể truy được về thời tiền sử, thời La Mã và Byzantium, cho đến hậu Byzantium. Do dân cư thưa thớt và đường sá kém, hẻm núi không được nhắc đến nhiều trong thời Ottoman. Khi dân binh Hajduk xuất hiện đã tụ tập ở đây rồi dần phát triển thành các làng định cư. Từ lúc có tuyến đường sắt đi qua vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nhiều văn nghệ sĩ, sử gia đã đến và ghi lại dấu ấn hiện đại tại đây. ]] Ba đặc điểm cơ bản có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của hẻm núi Sićevo trong quá khứ và hiện tại, đặt trong bối cảnh bảo tồn môi trường tự nhiên là:

Những khai quật tiếp theo sâu hơn tại hang Mala Balanica đã phát hiện dấu vết cổ xưa hơn của loài người, trước cả người Neanderthal. Điều này chứng tỏ trên cùng một địa điểm đã có những nhóm người khác nhau sinh sống trong khoảng từ 150.000 đến 600.000 năm trước.

Nghiên cứu mới nhất của William Rink từ Canada cho thấy hàm hóa thạch này đã có ít nhất 397.000 tuổi, hoặc có thể lên đến 525.000 tuổi. Như vậy, đây là hóa thạch về con người cổ nhất ở Trung Âu, có từ giai đoạn giữa thế Cánh Tân.

Ranh giới của bộ lạc Triballi và Dardani

Vào thế kỷ 6 TCN, Triballi và Dardani là những tộc người lớn mạnh nhất ở Balkan. Trung tâm của Triballi chạy ngang qua Ponišavlje ngày nay. Các suy đoán cho rằng có ranh giới tự nhiên giữa hai bộ lạc này, và nếu có thì đó chính là hẻm núi Sicevo và núi Suva dường như là giả định chắc chắn do rất khó vượt qua. Tuy nhiên ranh giới này cũng không rõ ràng vì vẫn có những dấu vết tác động qua lại giữa Triballi và Dardani.

Thời đại đồ sắt ở Serbia đánh dấu bằng sự xuất hiện của người Celt cũng như sự xâm nhập của nền văn minh Hy Lạp. Người Celt tấn công và chiếm một phần lãnh thổ Triballi nhưng sau đó liên kết với nhau lập nên bộ lạc Scordisi hùng mạnh, lưu lại dấu vết trong hẻm núi Sićevo.

Biên giới hành chính La Mã

nhỏ|280x280px|Vào thế kỷ thứ 3, hẻm núi Sićevo thuộc Dardania của tỉnh [[Moesia (Thượng Moesia), về sau thuộc tỉnh Dacia]]

Phần lãnh thổ Serbia ngày nay được sáp nhập vào Đế quốc La Mã khoảng năm 29-28 TCN sau khi Marcus Licinius Crassus tiến hành đại chinh phạt từ Macedonia đến Moesia, đánh tan các bộ lạc Triballi và Dardani. Hai năm chiến tranh đã khuất phục Ponišavalje, chắc chắn hẻm núi Sićevo lúc đó thuộc tỉnh Moesia của Đế quốc La Mã (hoặc phần Thượng Moesia).

Thượng Moesia bao gồm phần lớn Serbia ngày nay. Chỉ một phần nhỏ ở phía đông nam thuộc về Thracia. Ranh giới phía đông của Moesia từ Kumanovo băng qua Tran chạy về phía tây bắc giữa Bela Palanka và Pirot. Làng Ploča và hẻm núi Sićevo nằm ở ranh giới của Nais (, tức Niš ngày nay) và Remesian ( ứng với Bela Palanka ngày nay).

Thời La Mã có "đường quân sự" (via militaris) để binh lính hành quân, với đoạn đường được coi là bất khả xâm phạm đến phía nam hẻm núi Sićevo rồi từ Niš dẫn qua Kunovica, cao nguyên Ploča, Crvena Reka đến Serdica và xa hơn nữa là Constantinopolis. "(Trên bản đồ) có ghi chú gần con đường Naissus - Serdica (ở Ihtiman gần Sofia) rằng Nero năm 61 cho dựng nhiều quán rượu và khách điếm dọc tuyến đường này."

Thời trung cổ

Năm 395, Đế quốc La Mã chia làm Tây La Mã và Đông La Mã (Byzantium). Hẻm núi Sićevo nằm ở Đông La Mã là phần diễn ra chiến tranh liên tục giữa La Mã và các bộ lạc Đông Serbia. Đến thời Justinianus I (527-565), tình hình mới được ổn định nhưng ngay sau đó, người Avar và Slav xâm chiếm lãnh thổ Đông Serbia ngày nay. Người Slav bắt đầu định cư ở hẻm núi Sićevo từ thế kỷ 5.

Lịch sử khu vực này ghi dấu đầu tiên với Stefan Nemanja liên tục đấu tranh với Bulgaria hoặc Byzantium, cùng với các cuộc nội chiến giữa các hoàng thân Serbia nhằm tranh giành quyền thống trị. Khởi nguồn từ chiến tranh Hungary-Byzantium 1165-1167, cái tên Stefan Nemanja và nhà nước Serbia lần đầu tiên được nhắc đến ở khu vực này. nhỏ|328x328px| Bản đồ bang German năm 1184 cho thấy hẻm núi Sićevo nằm ở Giáo xứ Nišava. Vào thời trung cổ (thế kỷ 12-14), hẻm núi Sićevo thuộc vương quốc Serbia. Nemanja định lập kinh đô tại Niš, ông đã cho xây Nhà thờ Thánh Pantaleon ở đó, nhưng chỉ có thể đảm bảo được quyền lực với sự trợ giúp của thế lực bên ngoài. Trong khi Byzantium chỉ chờ đợi cơ hội để tấn công.

Sau các cuộc chiến của Nemanja ở phía đông (1183-1190) cuối cùng thất bại trước Hoàng đế Byzantium Manuel I Komnenos, hẻm núi Sićevo nằm trong Giáo xứ Nišava. Những năm tiếp theo chứng kiến sự bất ổn cho Trung Ponišavlje và hẻm núi Sićevo. Trong các nguồn lịch sử và địa lý, giáo xứ này được gọi là Oblast Nišava. Khoảng năm 1220, hẻm núi có vị trí giáp ranh đặc biệt với một trong các huyện Nišava (xem bản đồ).

Trong các giai đoạn tiếp theo, Ponišavlje là đất thuộc vương triều Nemanjić. Vào thời kỳ cuối của vương triều, Stefan Dušan và quan quân ở Zeta quyết định tiếm ngôi vua cha là Stefan Uroš III Dečanski. Thời cơ đến khi John Alexander lên làm Sa hoàng Bulgaria, đe dọa nghiêm trọng đến miền biên giới và các thành bang Serbia, bao gồm cả khu vực hẻm núi Sićevo. Dušan cùng con rể dẫn quân tấn công và bắt giữ vua cha. Dušan lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 9 năm 1331, phụ hoàng bị lật đổ của ông qua đời tháng 11 năm đó. Ngay sau đó là thời kỳ chinh phạt lớn phía đông nam.

Sau khi Dušan băng hà, con trai ông là Uros V không đủ khả năng chế ngự các lãnh chúa dẫn đến cát cứ khắp nơi, vương triều dần sụp đổ hoàn toàn. Đế quốc Ottoman lợi dụng tình hình Serbia bị chia cắt trong giai đoạn 1338-1386 để chiếm Ponišavlje. Vị trí ranh giới của hẻm núi Sićevo trong thời kỳ này cũng được phản ánh trong đơn vị hành chính đương thời như Niš hoặc Pirot thuộc Sophia Sanjak.

Thuộc Đế chế Ottoman

Trong thời kỳ chiếm đóng của Ottoman, hẻm núi Sićevo, cũng như thung lũng Niš và Belopalanche, thuộc về Sophia Sanjak cho đến thế kỷ 18. Sofia Sanjak thuộc về Ejalet Rumeli được Ottoman thành lập năm 1393, sau khi thắng trận Kosovo năm 1389. Tiếp đến, người Thổ củng cố nền cai trị trên toàn bán đảo Balkan. Từ cuối thế kỷ 14 đến cuối kỷ 15, Đại Sanjak bao gồm tất cả lãnh thổ Nišava và thành Niš.

Thế kỷ 14-18, hẻm núi Sićevo và núi Suva tạo thành một vành đai dân tộc học tự nhiên, thường nằm trong các đơn vị hành chính liên hệ với Pirot.

Trên biên giới Serbia và Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 1837-1877

Năm 1833, sáu tỉnh miền nam sáp nhập vào Serbia, phía đông hẻm núi Sićevo cùng các làng xung quanh như Gradište trở thành khu biên giới giữa Serbia và Ottoman. Năm 1837, một hàng rào được dựng lên làm biên giới vật lý. Ngày 28 tháng 7 năm 1837, hoàng thân Miloš Obrenović ra lệnh cho tư lệnh trấn thủ Danu-Timok là đại tá Stevan Stojanović: "thiết lập biên giới từ Aleksinac đến Vrška Čuka, cả nơi có sườn núi phẳng và núi bao quanh, đảm bảo ngăn cách để người và gia súc không thể đi từ bên này sang bên kia". Hàng rào biên giới tồn tại cho đến khi giải phóng hoàn toàn vào năm 1877.

Văn hóa vật chất

Dấu vết văn hóa vật chất tại hẻm núi Sicevo dù rất ít ỏi nhưng có thể truy nguyên từ thời tiền sử, thời cổ đại, thời La Mã, thời Byzantium, hậu Byzantium cho đến Trung cổ, như: xương, công cụ, vũ khí, bia mộ và tiền xu.

Bị tách biệt khỏi những tác động bên ngoài (các trung tâm đô thị đông đúc), các làng nằm trong hẻm núi Sićevo mang một lối sống dân dã và hình thức văn hóa nông thôn tồn tại cho đến tận ngày nay. Các hình thức văn hóa vật chất khác nhau từ thế kỷ 18,19 và nửa đầu thế kỷ 20 vẫn còn ghi dấu trong ngôi nhà, khu vườn cũ, nhà thờ, nhà nguyện và nghĩa trang (đồ phụng vụ, bia mộ, nông cụ, tiền xu, nhẫn và các đồ vật nhỏ khác).

Tu viện

Các tu viện có ý nghĩa nhất trong hẻm núi Sićevo là Tu viện Thánh Petka Iverica ở Ostrovica, Tu viện Đức Mẹ Đồng Trinh ở Sićevo và Tu viện Đức Mẹ hiển linh ở Kulina.

Cái tên "Iverica" đưa đến phỏng đoán rằng tu viện do các tu sĩ đến từ tu viện Gruzia Iviron trên núi Athos đến lập nên. Nhà thờ thánh Petka được quân đội Serbia xây dựng vào năm 1898, kết hợp cùng với việc mở đường sắt và đường bộ qua hẻm núi Sićevo. Nhà thờ cũng là cách người dân bày tỏ lòng biết ơn Thượng đế và thánh thần đã phù hộ cứu vua Alexander Obrenović khỏi chết đuối ở biển gần Biarritz, Pháp. Tu viện sau này được tôn là "Tu viện quân đội hoàng gia Serbia của Thánh Petka Iverica", chiếm vị trí độc đáo trong lịch sử Giáo hội Chính thống Serbia. Từ cuối thế kỷ 19, nhà thờ cũ được sửa mới cũng như xây dựng thêm các nhà thờ mới.


nhỏ|300x300px| Nhà thờ thánh Nicholas ở làng Tu viện

Giá trị kiến trúc và tâm linh được thể hiện trên các tranh tường của tu viện. Bức tường phía đông phần lớn vẽ Đức Mẹ Maria và một phần của Sự phán xét cuối cùng. Còn trong cung thánh là minh họa về Lễ Thánh và Sự khổ nạn của Đấng Christ. Tranh tươi sáng nhưng ít màu sắc, vẫn đặc tả chính xác và còn nguyên theo thời gian.

Tu viện Đức Mẹ hiển linh ở Kulina

Ở mạn hữu sông Nišava, phía tây nam làng Sićevo, cách Kulina 15 phút đi bộ là di tích tu viện này (nay gọi là "Thánh Gioan"). Các bức tường còn lại nói về nguồn gốc xa xưa cũng như truyền thuyết nhà thờ được xây dựng từ thời Byzantium, trước cả khi đế quốc Ottoman đặt chân đến Bán đảo Balkan. Nơi đây từng là một tu viện lớn có tháp cao với nhiều tu sĩ trong đó.

Du lịch

Mặc dù hẻm núi Sićevo là một địa điểm lý tưởng tốt cho tất cả những người yêu thích thiên nhiên hoang sơ, vẽ tranh và sáng tác văn học, săn bắn, câu cá, chèo thuyền, leo núi, dù lượn, nhưng các dịch vụ du lịch và giải trí hiện tại không phát triển đủ tầm. Có rất ít các dịch vụ được tổ chức kết nối đến hẻm núi Sićevo từ các đô thị lân cận hay toàn Serbia. Khách du lịch chủ yếu đến theo hình thức giải trí, sinh viên nghiên cứu, tham quan, câu cá và săn bắn, thể thao (leo núi, chèo thuyền tốc độ cao, dù lượn). Các di sản lịch sử văn hóa chỉ mới được khai thác một phần nhỏ (tu viện, di chỉ khảo cổ, nhà máy thủy điện, di tích kiến trúc quốc gia,...). nhỏ|290x290px| Khách sạn duy nhất trong hẻm núi có tên Sićevo phải|nhỏ|290x290px| Trường tiểu học cũ Sićevo, nay là Nhà Văn học Nghệ thuật hàng năm quy tụ nhiều văn nghệ sĩ trên khắp thế giới
nhỏ|290x290px| Khúc sông Nišava ở gần Ostrvica rất lý tưởng cho các môn chèo thuyền như kayak Tiềm năng du lịch của hẻm núi Sićevo ẩn trong các giá trị tự nhiên, hệ sinh thái, đa dạng sinh học cùng địa hình, khu bảo tồn cảnh quan, hệ thực vật và động vật đặc hữu, đặc trưng của vùng Nišava đồng thời gắn với nhiều giá trị lịch sử văn hóa.

Địa hình các thung lũng sông Nišava và Kutina là cơ sở tự nhiên để thiết lập các tuyến đường qua hẻm núi. Một trong những tuyến giao thông quan trọng nhất khu vực Balkan đi qua đây. Thung lũng Nišava giao cắt với đường trục chính và tuyến đường sắt Beograd - Niš - Sofia - Istanbul.

Chỉ hai thập kỷ hoàn thành tuyến đường xuyên qua trung tâm hẻm núi Sićevo, giao thông và du lịch đã tăng nhanh dẫn đến quá tải. Nơi này không chỉ trở thành nút cổ chai trong hệ thống đường vành đai châu Âu mà còn là yếu tố ngăn trở sự phát triển của Niš, khi chỉ tận dụng được một ưu thế rất nhỏ nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi là ngã tư Balkan trọng yếu. Khoảng thời gian đó cũng tạo ra các vấn đề môi trường nghiêm trọng cho khu bảo tồn Công viên thiên nhiên Hẻm núi Sićevo.

Để cải thiện tình hình giao thông trên Hành lang 10 và bảo vệ di sản tự nhiên và tiềm năng du lịch của hẻm núi Sićevo, trước hiện trạng đường cao tốc quốc tế hiện tại chạy thẳng qua giữa Công viên thiên nhiên Hẻm núi Sićevo đang đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống và đa dạng sinh học; dự án đường cao tốc liên vùng và xuyên lục địa mới lại được hướng qua Ploča.

Cuối năm 2011, tuyến cao tốc hiện đại Niš-Dimitrovgrad được khởi công đi theo sườn dốc phía bắc núi Suva, qua thung lũng sông Studena, Kunovica, Draguša và Crvene, men theo địa giới của công viên thiên nhiên từ Prosek đến Crvena Reka. Công trình đường giao thông này không chỉ ngăn chặn sự "xói mòn" hệ sinh thái và vẻ đẹp tự nhiên của Hẻm núi Sićevo, mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế và du lịch khu vực xung quanh Hành lang 10, cũng như giao thông liên vận và kinh tế Serbia với các nước láng giềng.

Các con đường xuyên qua hẻm núi Sićevo còn cách xa mục đích nhu cầu sử dụng ở châu Âu

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hẻm núi Sićevo** (tiếng Serbia: _Сићевачка клисура_) của Serbia nằm ở thung lũng sông Nišava do dòng chảy cắt qua núi đá kiến tạo nên, giữa các nhánh phía bắc của núi Suva và các
**Người Neanderthal** (phát âm tiếng Anh: , còn được viết là **Neandertal**, phiên âm tiếng Việt: **Nêanđectan**, với các danh pháp khoa học: **_Homo neanderthalensis_** hay **_Homo sapiens neanderthalensis_**) Nhiều học giả khác đề xuất