✨Người Neanderthal

Người Neanderthal

Người Neanderthal (phát âm tiếng Anh: , còn được viết là Neandertal, phiên âm tiếng Việt: Nêanđectan, với các danh pháp khoa học: Homo neanderthalensis hay Homo sapiens neanderthalensis) Nhiều học giả khác đề xuất các giả thuyết như: sự cạnh tranh thay thế, sự hòa huyết với người hiện đại (minh chứng là bộ gen trộn lẫn của người hiện đại), biết điều trị vết thương nặng,). Đàn ông Neanderthal trung bình cao khoảng 165 cm còn đàn bà trung bình cao khoảng 153 cm, tương tự như người hiện đại thời tiền-công nghiệp. và tiểu não nhỏ hơn; song vùng thái dương, chẩm và trán ổ mắt lớn hơn.

Tổng dân số của người Neanderthal rất thấp, khiến tăng sinh các biến thể gen yếu và có hại, cùng một số chức năng và cấu trúc sinh học của người hiện đại, hoặc với âm xát /θ/ (kiểu như ).

Mẫu chuẩn (type specimen) Neanderthal 1 còn được gọi là "hộp sọ Neanderthal" (tên tiếng Anh là "Neanderthal cranium" hoặc "Neanderthal skull") trong các tài liệu nhân chủng học, và cá thể được tái tạo dựa trên cơ sở hộp sọ ấy đôi khi được gọi là "người đàn ông Neanderthal" ("the Neanderthal man"). Nhà địa chất học người Ireland tên là William King trong một bài báo đọc trước Hiệp hội Khoa học Anh lần thứ 33 vào năm 1863, đã đề xuất danh pháp hai phần là Homo neanderthalensis. Danh pháp đã mở rộng ý nghĩa của tên gọi "người Neanderthal" ban đầu vốn thuộc về một cá thể duy nhất để chỉ toàn bộ một giống loài và chính thức công nhận loài người này có sự khác biệt với người hiện đại (H. sapiens). Tuy nhiên vào năm 1864, ông khuyến nghị nên tách người Neanderthal và người hiện đại thành hai chi khác nhau sau khi đối chiếu sọ người Neanderthal với sọ tinh tinh, cho rằng họ "không có khả năng quan niệm đạo đức và [hữu thần]". thumb|Cây phát sinh nhóm Linh trưởng lỗi thời của [[Ernst Haeckel cho thấy H. stupidus (tức Neanderthal) là tổ tiên của H. sapiens]]

Lịch sử nghiên cứu

thumb|left|Mái sọ của mẫu chuẩn [[Neanderthal 1 tại Musée de l'Homme, Paris|alt=A skullcap with a broad brow ridge and a large chip behind the right brow]] Di cốt người Neanderthal được phát hiện lần đầu tiên — Engis 2 (một hộp sọ) — bởi nhà tự nhiên học người Hà Lan Philippe-Charles Schmerling vào năm 1829 tại Grottes d'Engis, Bỉ; nhưng bấy giờ ông cho rằng đó là hộp sọ hóa thạch của người hiện đại. Năm 1848, Edmund Henry Réné Flint trình diện mẫu vật Gibraltar 1 từ Mỏ đá Forbes lên Hiệp hội Khoa học Gibraltar song họ cho rằng đó là hộp sọ của người hiện đại. Năm 1856, giáo viên địa phương Johann Carl Fuhlrott nhận thấy sự khác biệt của một số di cốt — Neanderthal 1 — tại Kleine Feldhofer Grotte trong Thung lũng Neander. Vào năm 1857, ông nộp số di cốt đó cho nhà nhân chủng học người Đức Hermann Schaaffhausen để tiến hành nghiên cứu. Mẫu này bao gồm xương sọ, xương đùi, cánh tay phải, xương trụ và xương cánh tay trái, xương hông trái, một phần xương vai phải, và các mảnh xương sườn. Dựa theo học thuyết của Charles Darwin trong cuốn Nguồn gốc các loài, Fuhlrott và Schaaffhausen lập luận rằng di cốt này thuộc về một dạng người hiện đại cổ; Schaaffhausen vốn là người theo chủ nghĩa Darwin xã hội nên ông tin rằng con người phát triển tuyến tính từ dã man lên văn minh, dựa vào đó mà đi đến kết luận người Neanderthal là giống mọi rợ ăn lông ở lỗ. Nhận định sai lầm của Virchow đã làm đình trệ công tác nghiên cứu người Neanderthal cho đến cuối thế kỷ 19. Boule là nguyên nhân khiến hình ảnh người Neanderthal gù lưng, man rợ, cầm chày, trở nên phổ biến trong văn hóa đại chúng; chẳng hạn như mô tả trong các tác phẩm The Quest for Fire (1911) của J.-H. Rosny aîné và The Grisly Folk (1927) của H. G. Wells.

thumb|Phục dựng (đã lỗi thời) mẫu [[Neanderthal 1 bởi Hermann Schaaffhausen, 1888]] Giữa thế kỷ 20, sau khi trò bịp người Piltdown bị phơi bày kèm với sự tái kiểm định mẫu La Chapelle-aux-Saints 1 (mẫu này thực chất mắc chứng thoái hóa khớp khiến cột sống bị gù xuống) và nhiều khám phá mới, cộng đồng khoa học bắt tay tái xây dựng bức tranh về người Neanderthal. Những ý tưởng như hành vi, trí thông minh và văn hóa của người Neanderthal bắt đầu được thảo luận, và hình ảnh "giống người hơn" của họ bắt đầu xuất hiện. Năm 1939, nhà nhân học người Mỹ Carleton Coon phục dựng người Neanderthal mặc quần áo công sở hiện đại nhằm nhấn mạnh rằng họ và người hiện đại không khác nhau là mấy. Cuốn tiểu thuyết The Inheritors năm 1955 của William Golding mô tả người Neanderthal có cảm xúc và văn minh hơn nhiều. chẳng hạn bởi nhà nhân học người Anh Thomas Huxley vào năm 1890, nhà dân tộc học người Đan Mạch Hans Peder Steensby vào năm 1907, và Coon vào năm 1962. Đầu những năm 2000, một số mẫu vật được cho là lai giữa hai dòng người đã được phát hiện: Lagar Velho 1 và Muierii 1. Tuy nhiên, giải phẫu tương tự của chúng có lẽ là do tiến hóa hội tụ. Gen Neanderthal trong các quần thể hiện đại được xác định lần đầu vào năm 2010 với việc lập bản đồ trình tự bộ gen người Neanderthal. Bản đồ này dựa trên 3 di cốt trong hang Vindija tại Croatia, chứa gần 4% DNA cổ ​​(cho phép các nhà khoa học giải trình gần như hoàn chỉnh bộ gen). Tuy nhiên, người ta thấy rằng cứ 200 cặp base lại có 1 sai hỏng bởi tỉ lệ đột biến cao đến mức khó tin, dường như bị ảnh hưởng bởi môi trường bảo quản mẫu. Vào năm 2012, nhà di truyền học người Mỹ gốc Anh Graham Coop đưa ra giả thuyết rằng họ đã tìm thấy bằng chứng về một loài người cổ xưa khác giao phối với người hiện đại. Thuyết này bị bác bỏ vào năm 2013 sau khi các nhà khoa học giải trình bộ gen Neanderthal chất lượng cao được bảo tồn trong mẩu xương ngón chân tìm thấy tại Hang Denisova, Siberia.

Phân loại

Người Neanderthal thuộc chi Homo của họ Người và thường được coi là một loài riêng biệt với danh pháp hai phần H. neanderthalensis, tuy cũng có khi được coi là một phân loài theo danh pháp ba phần H. sapiens neanderthalensis. Nếu ta chấp nhận kiểu phân loại sau thì người hiện đại phải được định danh là H. sapiens sapiens. Tuy nhiên, bởi lẽ nhiễm sắc thể Y phụ hệ và DNA ty thể mẫu hệ (mtDNA) bắt nguồn từ người Neanderthal không xuất hiện ở người hiện đại cộng với sự vắng mặt của DNA nhiễm sắc thể X của người Neanderthal ngụ ý rằng con lai của hai nhóm thường có nguy cơ bị vô sinh. Điều này chứng tỏ một rào cản sinh sản tồn tại giữa hai nhóm, chính vì vậy có thể coi chúng là hai loài khác nhau. hoặc sự xâm nhập gen từ một dòng di cư ra khỏi châu Phi của người hiện đại sớm hơn chưa được xác định vào bộ gen người Neanderthal.

Tiến hóa

Phần lớn giới chuyên gia cho rằng H. heidelbergensis là tổ tiên chung cuối cùng của người Neanderthal, người Denisova, và người hiện đại trước khi các quần thể này trở nên biệt lập lần lượt tại châu Âu, châu Á và châu Phi. Cách để phân biệt H. heidelbergensis và người Neanderthal chủ yếu dựa trên khoảng trống hóa thạch ở châu Âu từ 300-243 nghìn năm trước thuộc giai đoạn đồng vị biển 8 (MIS 8, viết tắt của Marine Isotope Stage 8). Theo quy ước, "người Neanderthal" là những hóa thạch có niên đại sau khoảng trống này. Tuy nhiên, di cốt 430 nghìn năm tuổi (ka) tại Sima de los Huesos nhiều khả năng là cá thể đại diện cho người Neanderthal sơ khai hoặc một nhóm liên quan mật thiết, và di cốt Aroeira 3 đã 400.000 năm tuổi có lẽ đại diện cho một giai đoạn tiến hóa quá độ. Ta phải chú ý rằng hình thái nguyên bản (basal) và phái sinh (derived) hoàn toàn có thể tồn tại đồng thời. Có lẽ từng xảy ra một sự kiện lưu chuyển gen giữa Tây Âu và Châu Phi trong kỷ Pleistocen giữa, làm che khuất đặc điểm Neanderthal ở các mẫu vật thuộc khoảng thời gian này, cụ thể là những mẫu được khai quật từ Ceprano, Ý và hẻm núi Sićevo, Serbia. Di tích nha khoa từ các di chỉ Visogliano và Fontana Ranuccio tại Ý chứng tỏ các đặc điểm nha khoa của người Neanderthal đã tiến hóa vào khoảng 450–430 nghìn năm trước trong thời kỳ Pleistocen giữa.

Hiện có hai giả thuyết chính về sự tiến hóa của người Neanderthal hậu kỳ phân tách của họ với người hiện đại, đó là: thuyết hai giai đoạn (two-phase) và thuyết bồi tụ (accretion). Giả thuyết hai giai đoạn cho rằng một đại sự kiện môi trường duy nhất — chẳng hạn như băng kỳ Saale — đã khiến quần thể H. heidelbergensis ở châu Âu tăng nhanh kích thước và độ chắc khỏe của cơ thể, làm cho hộp sọ dãn ra (giai đoạn 1), rồi dẫn đến những thay đổi tiếp ở hộp sọ (giai đoạn 2). Các nghiên cứu DNA đưa ra nhiều kết quả khác nhau về thời điểm phân tách Neanderthal/người hiện đại, ví dụ như 538–315, 565–503, 654–475, 690–550, 765–550, hoặc 800–520 nghìn năm trước. Ngoài ra một phân tích nha khoa năm 2019 kết luận sự phân tách xảy ra 800.000 năm trước.

Người Neanderthal và người Denisova có quan hệ họ hàng gần gũi với nhau hơn so với người hiện đại, tức là sự phân tách giữa người Neanderthal và Denisova xảy ra sau khi họ chia tách với người hiện đại. Giả sử tốc độ đột biến là 1x10−9 hoặc 0.5x10−9 trên mỗi cặp base (bp) mỗi năm, sự phân tách Neanderthal/Denisova xảy ra lần lượt vào khoảng 236–190 hoặc 473–381 nghìn năm trước. Trước khi rẽ nhánh, tổ tiên chung Neanderthal/Denisova (còn gọi là "người Neandersova") di cư ra khỏi châu Phi vào châu Âu rồi dường như lai tạp với một loài người "siêu thái cổ" chưa xác định đã có mặt ở đó từ trước; loài siêu thái cổ này là hậu duệ của cuộc di cư ra khỏi châu Phi thuở sớm khoảng 1,9 triệu năm trước.

Nhân khẩu

Phạm vi

thumb|left|upright|Sọ Neanderthal tìm thấy ở [[Hang Tabun, Israel, thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Israel|alt=A skull missing most of the left side of the face from the mid-orbit to the teeth]]

Ta biết rất ít về người tiền-Neanderthal và Neanderthal sơ kỳ sống trước thời kỳ gian băng Eemian (130.000 năm trước), và di cốt của họ chủ yếu được tìm thấy tại các địa điểm phía Tây Âu. Từ thời điểm 130.000 năm trước trở đi, chất lượng các mẫu hóa thạch Neanderthal (cổ điển) tốt lên đáng kể, có thể được tìm thấy tại Tây Âu, Trung Âu, Đông Âu và vùng Địa Trung Hải thuộc châu Âu, cũng như Tây Nam, Trung và Bắc Á rồi tới tận dãy núi Altay ở miền nam Siberia. Mặt khác, lãnh thổ của người tiền-Neanderthal và Neanderthal sơ kỳ dường như chỉ thu gọn tại Pháp, Tây Ban Nha và Ý, tuy cũng có một số tiến ra khỏi "khu vực lõi" này để lập các khu tạm cư về phía đông, chưa hoàn toàn thoát khỏi châu Âu. Miền tây nam nước Pháp là nơi có mật độ di chỉ tiền-Neanderthal, Neanderthal sơ kỳ và Neanderthal cổ điển dày đặc nhất.

Di chỉ Neanderthal cực nam hiện được biết là Hang Shuqba, Levant; các báo cáo về sự hiện diện của Neanderthal tại Jebel Irhoud ở Bắc Phi và Haua Fteah đã được đính chính là H. sapiens. Di chỉ Neanderthal cực đông hiện được biết là hang Denisova, Siberia 85° Đông. Hộp sọ với biệt danh Mã Bá Nhân được tìm thấy tại đông nam Trung Quốc chia sẻ một số đặc điểm hình thái với sọ Neanderthal, mặc dù đây có thể chỉ là kết quả của sự tiến hóa hội tụ chứ chưa chắc người Neanderthal đã mở rộng phạm vi đến Thái Bình Dương. Địa đầu Neanderthal phía bắc thường được chấp nhận là 55° Bắc, với các di chỉ không bàn cãi nằm trong khoảng từ 50° Bắc–53° Bắc song vẫn rất khó để đánh giá chính xác vì sự xâm lấn của băng hà đã tàn phá hầu hết các di tích cổ xưa. Nhà cổ sinh vật học Trine Kellberg Nielsen cho rằng sự thiếu thốn bằng chứng tại Nam Scandinavia (ít nhất là các bằng chứng thuộc kì gian băng Eemian) chính bởi một phần lý do trên. Các đồ tạo tác thời đại đồ đá cũ giữa đã được tìm thấy ở 60° Bắc vùng đồng bằng Nga, nhưng nhiều khả năng chúng là sản phẩm của người tinh khôn. Một nghiên cứu năm 2017 khẳng định chi Homo từng sinh sống tại địa điểm Cerutti Mastodon ở California Bắc Mỹ cách đây 130.000 năm, nhưng bị hầu hết giới khảo cổ bác bỏ.

Không rõ khí hậu dao động nhanh chóng của thời kỳ băng hà cuối cùng (sự kiện Dansgaard-Oeschger) tác động thế nào đến người Neanderthal, bởi lẽ thời kỳ ấm lên sẽ tạo điều kiện nhiệt độ thuận lợi cho phép rừng cây phát triển và xua đuổi các đàn động vật lớn còn thời kỳ lạnh giá sẽ tạo ra hiệu ứng ngược lại. thumb|upright=1.35|Bản đồ châu Âu vào [[băng kỳ Würm (70–20 nghìn năm trước)]]

Dân số

Giống như người hiện đại, người Neanderthal có lẽ xuất thân từ một quần thể cỡ nhỏ với dân số hiệu quả (effective population) - tức số lượng cá thể có thể làm cha mẹ - nằm trong khoảng từ 3.000 đến 12.000. Tuy nhiên dân số người Neanderthal duy trì ở mức rất thấp, làm tăng sinh các gen có hại và yếu bởi thiếu sự hiệu quả của chọn lọc tự nhiên. Nhiều nghiên cứu khác nhau sử dụng phân tích DNA ty thể đưa ra các dân số hiệu quả khác nhau, hoặc từ 3.000 đến 25.000 tăng đều đặn cho đến 52.000 năm trước rồi suy giảm cho đến khi tuyệt chủng. Song tất cả nghiên cứu đều đồng ý dân số của họ rất thấp, có lẽ vì tỉ lệ sinh đẻ của người Neanderthal kém hơn.

Trong một mẫu gồm 206 cá thể Neanderthal, dựa trên số lượng lớn cá thể nam giới trưởng thành và trẻ tuổi so với các độ tuổi nhân khẩu khác, khoảng 80% người trên 20 tuổi trong số này chết trước khi đến tuổi 40. tỉ lệ tử vong cao ngất ngưởng này có lẽ là bởi họ sinh sống trong môi trường căng thẳng cao. Tuy nhiên ước tính chỉ ra rằng tháp tuổi của người Neanderthal và người hiện đại đương thời giống hệt nhau.

**Phân bố địa lý các di chỉ Neaderthal (bằng tiếng Đức)**

Giải phẫu

Vóc dáng

Người Neanderthal sở hữu cơ thể cường tráng và săn chắc hơn người hiện đại điển hình, và chiều cao trung bình của người vào năm 1900 lần lượt là 163 cm và 152,7 cm. Bản ghi hóa thạch cho thấy người Neanderthal trưởng thành có chiều cao từ 147,5 đến 177 cm, và một số có thể cao hơn thế. Chỉ số khối cơ thể của nam giới Neanderthal rơi vào khoảng 26,9–28,2; tức thừa cân đối với người hiện đại. Điều này chứng tỏ vóc dáng của họ phải rất cường tráng. Gen LEPR của người Neanderthal chịu trách nhiệm điều tiết lưu trữ chất béo và sản sinh thân nhiệt tương tự gen voi ma mút lông xoăn, đều là những đặc điểm thích nghi với khí hậu giá rét.

Đốt sống cổ của người Neanderthal dài và dày hơn so với (hầu hết) người hiện đại để cân bằng cái đầu với hình dạng khác biệt của họ. Ngực của người Neanderthal (bao gồm lồng ngực) có kích thước tương tự như người hiện đại song các xương sườn dài và thẳng hơn. Điều này nghĩa là phần giữa ngực dưới của họ rộng và phần ngực dưới co giãn khi hít thở mạnh hơn, ngụ ý rằng cơ hoành và dung tích phổi của họ lớn. Dung tích phổi mẫu vật Kebara 2 được ước tính ở mức , so sánh với dung tích phổi trung bình ở người hiện đại là đối với nam và đối với nữ. Ngực của người Neanderthal căng rộng theo chiều trước-ra-sau. Xương cùng (nơi xương chậu nối với cột sống) nghiêng theo chiều thẳng đứng và ở vị trí thấp hơn so với khung chậu, khiến cho cột sống của họ ít ưỡn hơn và hơi gập vào. Nếu triệu chứng này xuất hiện ở người hiện đại thì được coi là một bất thường với tên gọi xương cụt thắt lưng hóa (lumbarized sacrum). Sự tiến hóa một cột sống như vậy giúp người Neanderthal tăng khả năng gập bên-sang-bên (mediolateral flexion), củng cố tốt hơn phần ngực dưới rộng. Một số học giả cho rằng đặc điểm này khá bình thường đối với chi Homo, ngay cả ở Homo ergaster hoặc Homo erectus của vùng nhiệt đới, và rằng tình trạng ngực hẹp ở hầu hết người hiện đại mới là điểm độc đáo.

Tỉ lệ cơ thể của người Neanderthal thường được nhận xét là cực kỳ thích nghi với giá lạnh (hay "hyperarctic"), bởi vì tỉ lệ đó tương tự như các quần thể người hiện đại sống tại vùng khí hậu lạnh—và chi vận động ngắn hơn giúp họ giữ lại nhiều thân nhiệt hơn. Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng những người Neanderthal sinh sống ở các đới khí hậu ôn hòa (chẳng hạn như Iberia) vẫn có dáng dấp "hyperarctic". Vào năm 2019, nhà nhân chủng học người Anh John Stewart và các đồng nghiệp đề xuất rằng đặc điểm bên trên của người Neanderthal thích nghi cho việc chạy nước rút chứ không phải giá lạnh, bởi lẽ bằng chứng cho thấy người Neanderthal thích những khu vực có cây cối ấm áp hơn thảo nguyên voi ma mút lạnh cóng và phân tích DNA cho thấy tỉ lệ sợi cơ co rút nhanh ở người Neanderthal lớn hơn so với người hiện đại. Stewart cho rằng tỉ lệ cơ thể và khối lượng cơ bắp lớn của Neanderthal thích nghi cho việc chạy nước rút trái ngược với vóc dáng thiên về chạy bền của người hiện đại, bởi lối săn mồi bền bỉ chỉ hiệu quả ở những vùng khí hậu nóng, nơi thợ săn bám theo con mồi cho tới khi nó kiệt sức bởi sự tăng thân nhiệt. Người Neanderthal có xương gót chân dài hơn, giảm khả năng chạy bền và các chi ngắn hơn của họ làm giảm chiều dài cánh tay đòn ở các chi, cho phép họ tạo lực quay lớn hơn ở cổ tay và mắt cá chân mà không cần gắng sức các cơ xoay ở khuỷu tay và đầu gối bằng cách tăng tốc độ rút cơ, tạo gia tốc lớn hơn.

Khuôn mặt

thumb|Phục dựng một người đàn ông Neanderthal, [[Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, London.]] Người Neanderthal có cằm thẳng, trán dốc và mũi nhô, nằm ở vị trí cao hơn trên mặt so với hầu hết người hiện đại. Hộp sọ Neanderthal thường dài hơn và không quá tròn như hầu hết người hiện đại, và búi chẩm (occipital bun) của họ có vẻ nhô rõ hơn, đặc điểm này tuy vậy cũng không hiếm ở loài người hiện đại. Sở dĩ có cái búi này là bởi nền sọ và xương thái dương của họ ở vị trí cao hơn và nằm gần hơn về phía trước của hộp sọ, kết hợp với một mái sọ phẳng hơn. Mắt của họ to hơn, thích nghi với môi trường ánh sáng yếu. Ngoài ra, phỏng dựng bằng máy tính chiếc mũi và các mô mềm của người Neanderthal cho thấy nhiều điểm tương đồng với mũi của các dân tộc sống ở Bắc Cực hiện đại, vì vậy rất có thể mũi của hai quần thể đã tiến hóa hội tụ để hít thở không khí khô lạnh.

Bộ hàm của người Neanderthal khá lớn. Điều này, cộng thêm bằng chứng răng trước của người Neanderthal bị mòn rất nặng, đã khiến một số tác giả suy đoán rằng lực cắn của họ rất mạnh (giả thuyết "trọng tải răng trước/anterior dental loading"), song kiểu mẫu mòn răng tương tự ở người hiện đại đã đặt ra vấn đề đối với giả thuyết này. Đặc điểm hàm lớn cũng có thể có công dụng để chứa vừa những chiếc răng to, giúp chống sự mài mòn răng tốt hơn, và lý do tại sao răng trước Neanderthal hao mòn hơn răng sau có lẽ chỉ đơn thuần bởi họ sử dụng chúng thường xuyên hơn. Kiểu mẫu mòn răng này có phần giống với người Inuit hiện đại. Ngày nay, lực cắn của người Neanderthal và người hiện đại được ước tính ở mức tương đương. Để tham chiếu, lực cắn của nam giới và nữ giới người hiện đại lần lượt vào khoảng và .

Bộ não

thumb|upright|left|Phục dựng một già lão NeanderthalThể tích sọ Neanderthal trung bình vào khoảng 1.640 cc đối với nam và 1.460 cc đối với nữ, nằm trong phạm vi khả dĩ của người hiện đại. Để so sánh, thể tích sọ người hiện đại ngày nay trung bình vào khoảng đối với nam và đối với nữ. Đối với 28 cá thể người hiện đại từ khoảng 190-25 nghìn năm trước, thể tích sọ trung bình rơi vào tầm bất kể giới tính (kích thước não người hiện đại có xu hướng teo nhỏ từ thời đá cũ muộn). Bộ não Neanderthal lớn nhất hiện được biết là Amud 1, với thể tích ước chừng , và đây cũng là một trong những bộ não lớn nhất được ghi nhận ở họ Người.

Hộp sọ Neanderthal dãn dài gần như hình bầu dục. Thùy đỉnh và tiểu não của họ bé hơn người hiện đại, đây là các phân khu đảm nhận chức năng sử dụng công cụ, tích hợp không gian trực quan, tính toán, sáng tạo, hình thành khái niệm cao cấp, trí nhớ cơ bắp, và có lẽ đảm nhận cả các chức năng ngôn ngữ, chú ý, trí nhớ làm việc, xã giao và trí nhớ từng hồi. Bộ não của người Neanderthal đặc trưng bởi các thùy đỉnh tương đối nhỏ hơn và tiểu não lớn hơn. Não của họ sở hữu cực thùy thái dương lớn hơn, và hành khứu giác lớn hơn so với người hiện đại, biểu hiện sự chênh biệt khả dĩ ở khả năng hiểu ngôn ngữ và liên hệ cảm xúc (chức năng của thùy thái dương), sự ra quyết định (chức năng của vỏ não trán-ổ mắt) và khả năng ngửi mùi (chức năng của hành khứu giác). Tốc độ tăng trưởng não ở người Neanderthal cũng khác biệt so với người hiện đại. Những chênh lệch như vậy tuy rất nhỏ nhoi song chúng rất đáng kể dưới áp lực chọn lọc tự nhiên, điều này có thể đóng vai trò cơ sở để giải thích những khác biệt về mặt vật chứng của hành vi xã hội, đổi mới công nghệ và sản phẩm nghệ thuật giữa hai loài người. Về mặt di truyền, người Neanderthal sở hữu gen BNC2 liên quan đến màu da sáng; song một biến thể BNC2 liên quan đến màu da sẫm cũng xuất hiện ở các quần thể hiện đại theo Ngân hàng sinh học Vương quốc Anh (UK Biobank).

Ở người hiện đại, màu sắc của tóc và da được điều hòa bởi hormone kích thích tế bào hắc tố — làm tăng tỉ lệ eumelanin (hắc tố) so với phaeomelanin (hồng tố) — được mã hóa bởi gen MC1R. Có 5 biến thể của gen này hiện hữu ở người hiện đại gây ra sự mất chức năng và có liên quan đến màu tóc và da sáng, ngoài ra còn một biến thể khác chưa được hiểu rõ xuất hiện ở người Neanderthal (biến thể R307G), có lẽ liên quan đến màu da nhợt nhạt và tóc đỏ. Biến thể R307G được xác định ở một người Neanderthal từ Monti Lessini, Ý, và chưa chắc chắn từ Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha. Song giống như người hiện đại, màu tóc đỏ Neanderthal có lẽ cũng không phổ biến vì R307G hiếm khi xuất hiện ở các mẫu gen Neanderthal được giải trình tự. một số nhà nghiên cứu cho rằng người Neanderthal trưởng thành nhanh hơn người hiện đại song các dấu ấn sinh học tuổi tác lại không ủng hộ giả thuyết này.

Nói chung, các mô hình giả thuyết về nhu cầu calo của người Neanderthal tính ra lượng tiêu thụ cao hơn đáng kể so với người hiện đại dựa trên giả thiết cho rằng người Neanderthal có tỉ lệ trao đổi chất cơ bản (BMR) cao hơn do khối lượng cơ lớn hơn, tốc độ sinh trưởng nhanh hơn và sản sinh thân nhiệt nhiều hơn để chống lạnh;

Người Neanderthal có lẽ thường hoạt động trong điều kiện ánh sáng yếu hơn là ánh sáng chói bởi vì họ sống ở những vùng ban ngày ngắn, săn các con mồi lớn (săn vào ban đêm để mai phục tốt hơn), và có đôi mắt và các trung tâm thần kinh xử lý thị giác lớn. Về mặt di truyền, mù màu (thường giúp sinh vật tăng cường khả năng thị giác trung gian sáng tối) thường tương quan với các quần thể ở vĩ độ phía bắc. Người Neanderthal từ hang Vindija ở Croatia có một số khác biệt ở gen Opsin dường như ảnh hưởng đến thị lực màu, song ta thực sự vẫn chưa rõ chức năng của những khác biệt này. Các alen có nguồn gốc từ người Neanderthal gần ASB1 và ​​EXOC6 thường có liên hệ với những người sống về đêm (hay "cú đêm"), chứng ngủ rũ và ngủ ban ngày.

Bệnh lý học

Tỉ lệ người Neanderthal chịu các chấn thương về xương khá cao, trong đó: 79–94% mẫu vật có các vết chấn thương lớn đã lành, 37–52% mẫu vật chịu chấn thương nặng, và 13–19% mẫu vật bị thương trước khi trưởng thành. Một ví dụ bị chấn thương cực kỳ nghiêm trọng là mẫu Shanidar 1: tay phải có dấu hiệu bị cắt cụt vì xương tay không liền lại sau khi gãy ở tuổi vị thành niên, xương đòn bên trái bị viêm tủy, xương chân bất đối xứng khiến dáng đi khập khiễng, hốc mắt trái có vấn đề, và thính giác dường như đã mất (có lẽ do bị viêm tai ngoài). Năm 1995, Trinkaus ước tính khoảng 80% cá nhân chống chọi không nổi các thương tật và chết trước tuổi 40; dựa vào đó ông đưa ra giả thuyết người Neanderthal vận dụng chiến lược săn mồi rất mạo hiểm (giả thuyết "rodeo rider"). thực sự thì có rất ít mẫu vật người hiện đại hậu kỳ đá cũ và người Neanderthal chết sau tuổi 40, và kiểu mẫu tổn thương của cả hai chủng người tựu trung rất giống nhau. Vào năm 2012, Trinkaus kết luận rằng người Neanderthal bị thương do xung đột nội bầy hoặc với các bầy khác. Một nghiên cứu xem xét 124 mẫu vật Neanderthal năm 2016 kết luận rằng nguyên nhân họ có tỉ lệ chấn thương cao như vậy là bởi họ đụng độ thường xuyên với các loài dã thú. Các nhà nghiên cứu phát hiện khoảng 36% mẫu vật là nạn nhân bị gấu tấn công, 21% mẫu vật đã bị đại miêu tấn công và 17% mẫu vật đã bị sói tấn công (tổng cộng có 92 trường hợp dương tính, tức 74%). Không trường hợp nào bị linh cẩu tấn công, mặc dù chúng đủ khả năng săn người Neanderthal, ít nhất là theo cơ hội.

thumb|upright=1.35|Mẫu [[La Ferrassie 1 tại Musée de l'Homme, Paris|alt=A mostly complete skeleton laid out against a black background horizontally]] Dân số thấp đồng nghĩa với sự đa dạng di truyền thấp và khiến nguy cơ giao phối cận huyết tăng, điều mà góp phần làm giảm khả năng chắt lọc đột biến có hại (thoái hóa giống). Tuy nhiên, ta vẫn chưa rõ điều này ảnh hưởng thế nào đến gánh nặng di truyền của một cá thể Neanderthal đơn độc, và do đó, ta chưa rõ tỉ lệ dị tật bẩm sinh của họ có cao hơn người hiện đại hay không. Song điều mà ta dám chắc đó là 13 cư dân tại Hang Sidrón biểu hiện 17 dị tật bẩm sinh khác nhau, có lẽ là hậu quả của giao phối cận huyết hoặc bệnh di truyền. Mẫu vật La Chapelle-aux-Saints 1 có dấu hiệu bị bệnh Baastrup, một loại bệnh ảnh hưởng đến cột sống và gây viêm xương khớp, bởi vì cá nhân này có lẽ đã khá cao tuổi (tầm thập niên 60-70). Mẫu vật Shanidar 1 (mất vào khoảng năm 30-40 tuổi) được chẩn đoán mắc hội chứng tăng tạo xương lan tỏa nguyên phát (DISH), đây là trường hợp cổ xưa nhất được ghi nhận của căn bệnh thoái hóa gây cản trở cử động này; nếu phát hiện này chính xác, đây sẽ là bằng chứng cho thấy người Neanderthal cao tuổi rất thường xuyên gặp tai nạn.

Người Neanderthal có thể mắc nhiều loại bệnh truyền nhiễm và là vật chủ của nhiều loài ký sinh trùng. Bệnh truyền nhiễm ở người hiện đại có thể lây sang người Neanderthal; đơn cử là loài vi khuẩn dạ dày Helicobacter pylori. Biến thể 16A của virus gây u nhú (HPV) ở người hiện đại dường như là hệ quả của sự xâm nhập gen Neanderthal. Một cá nhân Neanderthal tại Cueva del Sidrón ở Tây Ban Nha được chẩn đoán nhiễm khuẩn đường tiêu hóa Enterocytozoon bieneusi. Người Neanderthal có tỉ lệ sâu răng thấp hơn người hiện đại, mặc dù một số quần thể tiêu thụ thực phẩm gây sâu răng với số lượng lớn; điều này dường như chứng tỏ miệng họ thiếu các loài vi khuẩn gây sâu răng, ví dụ Streptococcus mutans.

Hai đứa trẻ Neanderthaloid 250.000 tuổi ở Payré, Pháp, là hai trường hợp homonid sớm nhất được biết bị ngộ độc chì. Chúng hấp thụ chì vào hai thời điểm khác nhau do ăn phải thực phẩm bẩn hoặc uống phải nước bẩn hoặc hít phải khói lửa chứa chì. Hai mỏ chì đã được tìm thấy trong phạm vi quanh khu vực khai quật. và các dấu chân tại Le Rozel, Pháp:

Phân tích răng một đứa bé Neanderthal vào năm 2018 cho thấy nó cai sữa sau 2,5 năm, tương tự như những người săn bắt hái lượm hiện đại, và nó được sinh ra vào mùa xuân, tương tự như người hiện đại và các loài thú có chu kỳ sinh trùng chu kỳ môi trường. Dựa trên các bệnh lý ở độ tuổi nhỏ gây ra bởi sự căng thẳng chẳng hạn như thấp còi, nhà khảo cổ người Anh Paul Pettitt cho rằng trẻ em cả hai giới phải lao động ngay sau khi cai sữa. Hơn nữa, tình trạng còi cọc như vậy có thể xảy ra do nguyên nhân khác chẳng hạn như mùa đông khắc nghiệt hoặc cạn kiệt thức ăn. Gấu hang có lẽ đụng độ rất thường xuyên với người Neanderthal để tranh giành hang động, bởi lẽ số lượng loài gấu này bắt đầu suy giảm kể từ thời điểm 50.000 năm trước trở đi (tuy nhiên chúng lại tuyệt chủng sau người Neanderthal). Người Neanderthal thường chiếm các hang động làm nơi ở, song ta cũng đã tìm thấy bằng chứng về các khu định cư của họ ngoài trời gần hệ thống hang động ở Levant, chứng tỏ họ từng đổi chỗ trú luân phiên giữa hai địa điểm này. Địa điểm 'Ein Qashish tại Israel và Moldova I ở Ukraine là những ví dụ tiêu biểu cho các khu định cư ngoài trời lâu dài của người Neanderthal. Tuy đúng là người Neanderthal dường như có khả năng sinh tồn ở nhiều kiểu môi trường — như đồng bằng và cao nguyên — một số nhà nghiên cứu cho rằng những di chỉ ngoài trời chỉ là nơi giết mổ làm thịt chứ không phải không gian sống.

Quan hệ ngoại bầy

Nhà dân tộc học khảo cổ người Canada Brian Hayden tính toán rằng, để một quần thể có khả năng tự duy trì (nói cách khác là để tránh giao phối cận huyết) thì nó phải gồm ít nhất 450–500 cá thể; điều này đòi hỏi các bầy Neanderthal phải tương tác với 8–53 bầy khác (ước tính lớn có độ chính xác cao hơn do mật độ dân số của họ thấp). Hệ số giao phối cận huyết dựa trên DNA của một phụ nữ Neanderthal từ Hang Denisova là (tức cha mẹ cô là anh chị em cùng mẹ khác cha; hoặc anh chị em họ đầu tiên có cùng ông bà hai bên; hoặc chú và cháu gái; hoặc dì và cháu trai; hoặc ông và cháu gái; hoặc bà và cháu trai). Nhà nhân học người Anh Eiluned Pearce và nhà khảo cổ người Síp Theodora Moutsiou cho rằng người Neanderthal có khả năng hình thành các nhóm dân tộc ngôn ngữ (ethnolinguistic tribes) rộng lớn về mặt địa lý bao gồm 800 thành viên dựa trên bằng chứng người Neanderthal có khả năng vận chuyển đá vỏ chai cách khu định cư tận , rồi so sánh với xu hướng tương quan giữa cỡ bộ lạc hiện đại và khoảng cách vận chuyển đá vỏ chai. Theo mô hình của họ, người Neanderthal không thể duy trì mạng lưới đường dài hiệu quả như người hiện đại, có lẽ bởi dân số họ thấp hơn đáng kể. Hayden ghi nhận một khu mộ gồm 6 hoặc 7 cá nhân tại La Ferrassie, Pháp, có lẽ là bằng chứng cho thấy các bầy Neanderthal hợp tác với nhau duy trì bản sắc xã hội riêng biệt và kiểm soát một số tài nguyên, thương mại, sản xuất, v.v. Bên lề, La Ferrassie nằm trên đường di cư của nhiều loài động vật phong phú tại châu Âu vào thế Canh Tân.

Ta cũng đã tìm thấy bằng chứng về các cuộc di cư xuyên lục địa quy mô lớn của người Neanderthal. Các mẫu vật lâu đời từ hang Mezmaiskaya tại dãy Kavkaz Dân số Neanderthal dường như bị sụt giảm trong giai đoạn MIS 4 (71–57 nghìn năm trước), và sự phân bố của truyền thống Micoquian chỉ ra rằng người Neanderthal đã tái chiếm Trung Âu và Kavkaz từ một refugium ở miền đông nước Pháp hoặc Hungary (biên rìa của truyền thống Micoquian) bằng cách men theo dòng Prut và Dniester.

Ta cũng đã phát hiện bằng chứng về xung đột giữa các bầy: một hài cốt từ La Roche à Pierrot, Pháp có một vết nứt đã lành trên đỉnh hộp sọ, dường như gây ra bởi một lưỡi đâm sâu; và xương sườn của một hài cốt từ Hang Shanadir, Iraq, biểu hiện vết tổn thương do bị mũi phóng đâm trúng.

Tôn ti xã hội

thumb|Tái dựng một già lão và trẻ con người Neanderthal tại [[Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, Viên]] Có ý kiến cho rằng bởi vì người Neanderthal sống theo bầy đàn và săn những thú mồi rất lớn, nên họ không có sự phân công giới tính trong lao động như ở các xã hội săn bắt hái lượm hiện đại. Điều này nghĩa là đàn ông, đàn bà và trẻ em đều phải tham gia săn bắt, chứ không có chuyện đàn ông săn bắt còn đàn bà hái lượm. Song nghiên cứu của Brian Hayden chỉ ra rằng nếu một xã hội săn bắt hái lượm hiện đại càng phụ thuộc vào thịt thì sự phân công lao động lại càng rõ rệt.

Có đề xuất gây tranh cãi cho rằng người Neanderthal mặc quần áo trang trí hoặc đồ trang sức—chẳng hạn như da báo hoặc lông vũ dã cầm—nhằm thể hiện địa vị cao trong bầy. Hayden cho rằng sở dĩ ta tìm được ít mộ táng Neanderthal là bởi chỉ những thành viên cấp cao mới được chôn cất đàng hoàng, giống một số xã hội săn bắt hái lượm hiện đại. Tầm 20 mồ chôn các cá thể Neanderthal dưới 4 tuổi đã được tìm thây—chiếm hơn một phần ba tổng số mồ hiện được biết—cho thấy những đứa trẻ chết sớm dường như được lo lắng chôn cất chu toàn hơn những độ tuổi khác. Năm 1980, người ta đưa ra giả thuyết rằng hai đống hộp sọ voi ma mút ở La Cotte de St Brelade, Jersey nằm dưới chân một hẻm núi là bằng chứng người Neanderthal xua voi ma mút chạy loạn ngã xuống vực, nhưng điều này hiện đang bị tranh cãi. Người Neanderthal sống trong môi trường rừng cây có lẽ săn mồi theo cách mai phục, tiếp cận rồi đâm chớp nhoáng mũi giáo vào mục tiêu ở khoảng cách gần. Người Neaderthal có thể thích nghi với nhiều kiểu môi trường sống, Tuy nhiên, người Neanderthal vẫn phải có chế độ ăn đủ chất để ngăn ngừa suy dinh dưỡng và ngộ độc protein, đặc biệt là vào mùa đông khi họ chủ yếu ăn thịt nạc. Vì vậy, một phần không thể thiếu trong chế độ ăn của người Neanderthal là những loại thực phẩm bổ sung dưỡng chất ngoài thịt nạc như óc voi ma mút giàu chất béo, hoặc phần lòng bụng và dạ dày của các con mồi ăn cỏ giống như chế độ ăn của người Inuit hiện đại.

Họ dường như chủ yếu tiêu thụ thịt từ thú có móng, cụ thể là hươu đỏ và tuần lộc. Ta có bằng chứng về việc họ săn bắt và mổ thịt các loài gấu hang và gấu nâu, cả trong thời kỳ chúng ngủ đông và không ngủ đông. Phân tích collagen xương của người Neanderthal từ Hang Vindija, Croatia, cho thấy hầu hết nhu cầu protein của họ đều được lấy từ thịt động vật. Một số hang động có bằng chứng về việc họ tiêu thụ thường xuyên thỏ và rùa. Tại các di chỉ ở Gibraltar, di cốt của 143 loài chim khác nhau đã được tìm thấy, bao gồm nhiều loài chim mặt đất như cút thường, Crex crex, sơn ca rừng và sơn ca mào. Người Neanderthal lội hoặc lặn để tìm động vật có vỏ ven biển tại bán đảo Iberia, Ý và Peloponnesos; Tại Hang Vanguard, Gibraltar, cư dân Neaderthal tiêu thụ thịt hải sản như hải cẩu thầy tu Địa Trung Hải, cá heo mỏ ngắn, cá heo mũi chai, cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương, cá tráp và nhím biển tím; và tại Gruta da Figueira Brava, Bồ Đào Nha, ta đã tìm thấy bằng chứng họ thu hoạch động vật có vỏ, cua và cá trên quy mô lớn. Bằng chứng về việc người Neanderthal đánh bắt cá hồi, cá hàng chài và lươn tại vùng nước ngọt đã được tìm thấy ở Grotte di Castelcivita, Ý;

Dấu tích thực vật và nấm ăn được người Neanderthal tiêu thụ đã được ghi nhận tại một số hang động. Tại Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha, người Neanderthal có chế độ ăn không thịt mà chỉ bao gồm nấm, hạt thông, và rêu, dựa trên phân tích cao răng. Dấu tích từ hang Amud, Israel, cho thấy người Neanderthal tiêu thụ sung, quả cọ, nhiều loại hạt cốc và cỏ ăn được. Một số chấn thương ở khớp chân của một số mẫu vật dường như ngụ ý thói quen ngồi xổm khi thu lượm thức ăn ở người Neanderthal. Cao răng từ Grotte de Spy, Bỉ, cho thấy cư dân Neanderthal tại đó tiêu thụ thịt tê giác lông mượt và cừu mouflon, đồng thời thường xuyên ăn nấm. Cư dân Neanderthal ở Hang Kebara nấu đậu và hạt thông; họ dường như hái lượm thực vật vào mùa xuân và mùa thu, săn bắt vào tất cả các mùa trừ mùa thu, và dường như đổi hang vào cuối mùa hạ đầu mùa thu. Tại động Shanidar ở Iraq, người Neanderthal luôn quay lại một khu vực nhất định vào cùng thời điểm để hái lượm thực vật, minh chứng rằng họ sở hữu hành vi thu thập thức ăn phức tạp.

Chế biến thức ăn

Người Neanderthal có lẽ biết một số kỹ thuật nấu ăn chẳng hạn như quay, làm nóng hoặc đun sôi súp, món hầm hoặc nước cốt. Kích thước răng của người Neanderthal có xu hướng tiêu giảm sau thời điểm 100.000 năm trước, điều này có lẽ cho thấy họ đã phụ thuộc ngày càng nhiều vào việc chế biến thức ăn hoặc họ đã tiếp thu được kỹ thuật đun sôi làm mềm thực phẩm. cũng như sử dụng một số thảo mộc như vạn diệp và cúc La Mã làm hương liệu hoặc dược liệu. Tại Hang Gorham, Gibraltar, người Neanderthal có lẽ đã quay quả thông để lấy hạt bên trong.

Tại Grotte du Lazaret ở Pháp, các nhà khảo cổ đã phát hiện di cốt của nhiều loài động vật, bao gồm tổng cộng 23 con hươu đỏ, 6 con ibex, 3 con bò rừng châu Âu và 1 con hoẵng châu Âu. Những con vật này dường như đã bị săn bắt bởi người Neanderthal trong cùng một mùa thu, đồng thời với kỳ động dục của các đàn hươu. Toàn bộ chiến lợi phẩm được họ chuyển về hang để mổ thịt. Một bầy Neanderthal chắc chắn không thể nào ăn hết được lượng thịt lớn như vậy, song nếu thịt không được tiêu thụ ngay sẽ trở nên ôi thiu phung phí; vì vậy, họ rất có thể đã bảo quản thịt bằng một phương pháp nào đó trước khi mùa đông đến. Với niên đại được xác định cách đây 160.000 năm, tập hợp di cốt này là bằng chứng tiềm năng lâu đời nhất về việc lưu trữ thực phẩm. Lượng lớn nạc mỡ được thu thập từ những con mồi điển hình (đơn cử là voi ma mút) cũng có thể là dấu hiệu cho thấy người cổ xưa biết lưu trữ thực phẩm. Đối với động vật có vỏ, người Neanderthal cần ăn, nấu hoặc bảo quản chúng theo cách nào đó ngay sau khi thu lượm bởi lẽ thịt của chúng rất nhanh hỏng. Tại Cueva de los Aviones ở Tây Ban Nha, vết tích động vật có vỏ ăn tảo, đặc biệt là tảo Jania rubens, có thể chỉ tới việc người Neanderthal ngâm động vật có vỏ dưới nước để giữ thịt chúng được tươi sống, giống như một số xã hội săn bắn hái lượm hiện đại. Dù vậy, ta hiện cũng có bằng chứng cho thấy linh cẩu hang cướp mồi và đồ ăn thừa từ các khu trại Neanderthal, và chúng đôi khi thậm chí ăn cả xác chết của người Neanderthal.

Ăn thịt đồng loại

Các nhà khảo cổ đã phát hiện một số trường hợp người Neanderthal thực hành hủ tục ăn thịt đồng loại. và tại Zafarraya ở Tây Ban Nha; và tại Grotte de Moula-Guercy, Les Pradelles, và La Quina ở Pháp. Khám nghiệm 5 cá nhân Neanderthal có dấu hiệu bị ăn thịt bởi đồng loại từ Grottes de Goyet ở Bỉ, tiết lộ những chi tiết sau: phần chi trên của họ bị tách khớp, còn phần chi dưới bị tróc thịt và đập nát (có lẽ để tiện rút tủy ra), khoang ngực của họ bị mổ phanh, và xương hàm bị xẻo nhiều vết. Ngoài ra có dấu hiệu cho thấy những kẻ đồ tể đã sử dụng vài mẩu xương để mài đẽo công cụ của họ. Công đoạn xẻ thịt người Neanderthal tại Grottes de Goyet tương tự như cách thức họ xẻ thịt ngựa và tuần lộc.

Dựa trên số lượng ít các mẫu vật được tìm thấy, cùng với số các vết cắt trên xương các cá nhân bị ăn thịt cao hơn số vết cắt trên động vật (chứng tỏ đồ tể thiếu kinh nghiệm trong việc cắt mổ đồng loại), hành vi ăn thịt đồng loại ở người Neanderthal có lẽ không hề phổ biến mà chỉ xảy ra trong thời kỳ lương thực thiếu thốn trầm trọng như một số trường hợp trong lịch sử loài người hiện đại.

Nghệ thuật

Trang hoàng bản thân

Thổ hoàng với niên đại từ 60-45 nghìn năm trước được tìm thấy rất nhiều tại các di chỉ Neanderthal, với mẫu tại Maastricht-Belvédère, Hà Lan có niên đại vào khoảng 250-200 nghìn năm trước và là mẫu sớm nhất được phát hiện (khoảng thời gian này tương tự với niên đại thổ hoàng tại các di chỉ H. sapiens). Tuy nhiên ở các bộ lạc săn bắt hái lượm hiện đại, ngoài ứng dụng sơn cơ thể, họ còn sử dụng thổ hoàng làm thuốc, thuộc da, làm chất bảo quản thực phẩm và làm chất chống côn trùng, vì vậy giả thuyết người Neanderthal bôi thổ hoàng lên thân thể vẫn chỉ là một suy đoán. Các thùng chứa dường như được dùng để trộn bột màu thổ hoàng đã được khai quật tại Peștera Cioarei, Romania, có thể là bằng chứng về việc người Neanderthal dùng bột màu cho mục đích thẩm mỹ.

thumb|Vỏ điệp [[Pecten maximus thu được từ Cueva Antón, Tây Ban Nha. Phần bên trong (trái) có màu đỏ tự nhiên, còn phần bên ngoài (phải) có các vệt màu phi-tự-nhiên]] Người Neanderthal thu thập những đồ vật có hình dạng độc đáo và gia công chúng thành mặt dây chuyền, chẳng hạn như hóa thạch vỏ ốc biển Aspa marginata có vệt sơn đỏ từ Grotta di Fumane, Ý, được vận chuyển hơn về di chỉ này khoảng 47.500 năm trước; 3 vỏ hữu cơ thuộc về các loài Acanthocardia tuberculata, Glycymeris insubricaSpondylus gaederopus có niên đại 120–115 nghìn năm trước ở Cueva de los Aviones, Tây Ban Nha, bị đục xuyên qua điểm mấu, trong đó vỏ thứ hai và ba từng được bôi bột đỏ và vàng, còn vỏ thứ ba được bôi sắc đỏ-đen trộn lẫn của hematit và pyrit; và vỏ sò điệp Pecten maximus để lại dấu vết hỗn hợp màu cam của goethit và hematit từ Cueva Antón, Tây Ban Nha.

thumb|upright|left|Phỏng dựng đồ trang sức sử dụng móng [[đại bàng đuôi trắng từ Krapina, Croatia (mũi tên chỉ vào các vết cắt)]] Hai nhà cổ nhân chủng học Clive và Geraldine Finlayson cho rằng người Neanderthal đã tận dụng nhiều bộ phận của chim muông cho mục đích nghệ thuật, đặc biệt là lông vũ màu đen. Năm 2012, Finlayson và các cộng sự đã khảo sát 1.699 địa điểm trên khắp Âu-Á, và nhận thấy rằng các loài chim ăn thịt và quạ tuy thường không được bất cứ loài người nào tiêu thụ, song di cốt của chúng sót lại rất nhiều. Đáng chú ý là chỉ duy nhất xương cánh của chúng bị biến đổi, mà phần cánh của chim thì lại ít nạc hơn phần thân; do vậy, đây rất có thể là bằng chứng cho việc nhổ lông bay lớn ở cánh chim để làm vật liệu trang trí. Các loài chim được ghi nhận ở các địa điểm trung kỳ đá cũ bao gồm kền kền xám tro, quạ mỏ đỏ, cắt thường, cắt nhỏ, quạ mỏ vàng, quạ đen mũi trọc, quạ gáy xám, và đại bàng đuôi trắng. Một số loài chim khác được xác định có lưu lại dấu vết của người Neanderthal bao gồm đại bàng vàng, gầm ghì đá, quạ thường và kền kền râu. Khẳng định sớm nhất về đồ trang sức bằng xương chim là một số móng vuốt đại bàng đuôi trắng 130.000 năm tuổi tìm thấy vào năm 2015 tại cùng một địa điểm gần Krapina, Croatia; có vẻ đều thuộc một sợi dây chuyền. Một dây chuyền tương tự làm từ móng đại bàng hoàng đế Tây Ban Nha 39.000 năm tuổi cũng đã được báo cáo vào năm 2019 tại Cova Foradà ở Tây Ban Nha, tuy vậy nó nằm đúng ở địa tầng Châtelperron đầy tranh cãi. Vào năm 2017, 17 bộ xương quạ có vết khía trang trí được báo cáo từ mái đá Zaskalnaya VI ở Ukraine, có niên đại cách đây 43–38 nghìn năm. Bởi các vết khía ít nhiều đồng đều nhau, đây chắc chắn không phải kết quả của việc xẻ thịt đơn thuần mà dường như đã được thiết kế với chủ đích.

Phát hiện vào năm 1975, di vật biệt danh mặt nạ la Roche-Cotard—một miếng đá lửa khá phẳng có một mảnh xương đút xuyên qua hốc trên điểm giữa—được định niên đại vào khoảng 32, 40, hoặc 75 nghìn năm trước. Một số tác giả cho rằng hình dạng của nó trông giống nửa trên khuôn mặt người, với hai cái đầu xương trồi ra biểu tượng cho đôi mắt. Tuy vậy, số khác vẫn hoài nghi rằng liệu đây có thực sự là một cái mặt nạ hay không; và thậm chí có nên được tính là nghệ thuật hay không. Năm 1988, dựa trên di cốt của một con báo được khai quật tại Grotte de L'Hortus ở Pháp (một hộp sọ, các đốt ngón tay và đốt sống đuôi), nhà khảo cổ người Mỹ Alexander Marshack đề xuất rằng một người Neanderthal tại đây từng mặc một chiếc áo choàng da báo để phô trương địa vị cao của mình trong bầy.

Nghệ thuật trừu tượng

thumb|upright|Các vết xước trên sàn [[Hang Gorham, Gibraltar|alt=Perpendicular lines on a cave floor]] Tính đến năm 2014, 63 bản khắc dường như có chủ ý đã được báo cáo từ 27 địa điểm có niên đại từ sơ kỳ đến trung kỳ đá cũ tọa lạc tại Châu Âu và Trung Đông. Trong đó 20 bản khắc trên vỏ đá lửa tại 11 địa điểm, 7 bản khắc trên phiến đá tại 7 địa điểm, và 36 bản khắc trên đá cuội tại 13 địa điểm. Ta không rõ liệu những bản khắc này được tạo ra với mục đích tượng trưng hay phi tượng trưng. Song đây cũng có thể chỉ đơn thuần là vết cào móng của gấu.

Năm 2018, một số chấm, đĩa, đường kẻ và khuôn tô sơn đỏ trên vách các hang động La Pasiega, Maltravieso và Doña Trinidad ở Tây Ban Nha được xác định niên đại về khoảng 66.000 năm trước, tức là ít nhất 20.000 năm trước khi người hiện đại xâm nhập Tây Âu. Điều này chứng minh tác giả của chúng, cùng nhiều hình tượng ở các địa điểm Tây Âu khác (chẳng hạn Les Merveilles ở Pháp và Cueva del Castillo ở Tây Ban Nha), không ai khác chính là người Neanderthal. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh vấn đề đo đạc niên đại hang và sự liên hệ của các tác phẩm với người Neanderthal.

Người Neanderthal biểu hiện hành vi thu thập các loại vật thể khác thường, tức những đồ vật không có chức năng gì, như tinh thể hoặc hóa thạch. Không rõ liệu họ thu gom những đồ vật này bởi chúng có phẩm chất thẩm mỹ, hay bởi chúng mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó đối với họ. Những vật phẩm này chủ yếu là tinh thể thạch anh, ngoài ra còn gồm nhiều loại khoáng chất khác như cerussit, pyrit sắt, canxit và galen. Một số phát hiện đã được biến đổi, chẳng hạn như một chiếc răng voi ma mút có vết rạch và một cái vỏ nummulite hóa thạch khắc chữ thập tại Tata, Hungary; một phiến đá lớn với 18 viên đá chốt rỗng tại một khu mả ở La Ferrassie, Pháp; Vỏ hóa thạch cũng xuất hiện rất thường xuyên tại các di chỉ Neanderthal ở Pháp, chẳng hạn vỏ một con rhynchonellid và một con Taraebratulina tại Combe Grenal; mỏ một con belemnite tại Grottes des Canalettes; một polyp tại Grotte de l'Hyène; một con nhím biển tại La Gonterie-Boulouneix; và một loài rhynchonella, huệ biển và mỏ một con belemnite tại địa tầng Châtelperron ở Grotte du Renne.

Âm nhạc

thumb|upright|[[Cây sáo Divje Babe tại Bảo tàng Quốc gia Slovenia|alt=A hollow piece of bone with two circular holes]] Những mảnh sáo làm từ xương dài của gấu đã được phát hiện tại Potočka zijalka ở Slovenia (vào những năm 1920), và Istállós-kői-barlang ở Hungary, và Mokriška jama ở Slovenia (vào năm 1985); thời bấy giờ người ta cho rằng chúng là sản phẩm của người Neaderthal song các ý kiến mới đây lại cho rằng chủ nhân thực sự của chúng là người hiện đại. Tuy nhiên, niên đại của nó trùng đúng thời điểm người hiện đại di cư vào khu vực, tức rằng nhiều khả năng người Neanderthal không phải chủ nhân của cây sáo. Năm 2015, nhà động vật học Cajus Diedrich lập luận rằng nó không phải một cây sáo, mà những cái lỗ trên thân mẩu xương thực chất là vết răng linh cẩu, bởi lẽ không có vết gọt đẽo rõ rành nào. Tuy vậy vào năm 2018, nhà khảo cổ người Slovenia là Matija Turk cùng các đồng nghiệp phản bác bài báo, và khẳng định chuyện các cây sáo xương không có vết gọt đẽo là điều khá bình thường.

Kỹ thuật

Mặc dù kỹ thuật đồ đá của người Neanderthal có dấu hiệu bị đình trệ tầm 150 nghìn năm,

Công cụ đá

Người Neanderthal biết chế tạo công cụ bằng đá với đặc trưng là kỹ nghệ Moustier. Ngoài ra, kỹ nghệ Moustier có liên hệ với quần thể H. sapiens ở Bắc Phi cách đây 315.000 năm và xuất hiện ở miền Bắc Trung Quốc khoảng 47–37 nghìn năm trước. Kỹ nghệ này phát triển cách đây 300.000 năm cùng với kỹ thuật Levallois hậu duệ của kỹ thuật Acheul do H. erectus phát minh vào khoảng 1,8 triệu năm trước. Kỹ thuật Levallois giúp việc kiểm soát hình dạng và kích thước mảnh đá dễ dàng hơn song nhược điểm là khó học và bất trực giác, bởi vậy nó có lẽ đã được truyền dạy trực tiếp qua các thế hệ thay vì thông qua học tập trực quan thuần túy.

Kỹ nghệ Moustier có nhiều biến thế ở từng địa phương, chẳng hạn như: kiểu phụ Quina và La Ferrassie thuộc kỹ nghệ Charentian ở tây nam nước Pháp, kiểu phụ A và B thuộc truyền thống Acheul dọc bờ biển Đại Tây Dương và tây bắc Châu Âu, Nếu nhận định của Binford đúng thì chứng tỏ người Neanderthal không thông minh bằng người hiện đại do họ phải thích ứng công cụ có sẵn của mình với môi trường chứ không có khả năng sáng tạo các loại công cụ mới. Một chuỗi liên tục kỹ nghệ đã được ghi nhận ở Grotte du Renne, Pháp, nơi có nhiều kiểu truyền thống đồ đá như Levallois – Charentian, Discoid – Denticulate (43,3 ± 0,929–40,9 ± 0,719 nghìn năm trước), Moustier Levallois (40,2 ± 1,5–38,4 ± 1,3 nghìn năm trước), và Châtelperron (40,93 ± 0,393–33,67 ± 0,450 nghìn năm trước).

Ta chưa biết rõ liệu người Neanderthal có vũ khí tầm xa hay không. Vết thương trên cổ một di cốt lừa hoang châu Phi từ Umm el Tlel, Syria, trông rất giống vết đâm xuyên của một mũi lao Levallois nặng, và chấn thương xương này phù hợp với các báo cáo về kỹ thuật ném đồ vật của người Neanderthal. Quan điểm đối lập cho rằng chủ nhân của kỹ nghệ Châtelperron chính là người hiện đại. Quá trình chuyển đổi đột ngột giống như Moustier/Châtelperron có lẽ chỉ đơn thuần đại diện cho sự đổi mới tự nhiên, giống quá trình chuyển đổi La Quina-Neronian 50.000 năm trước với các công cụ thường được cho là thuộc về người hiện đại như bladelet (dao đá nhỏ có một cạnh sắc một cạnh cùn) và microlith (vi thạch: mảnh tước thường được dùng làm mũi giáo hay mũi tên). Các nền văn hóa quá độ còn bị tranh cãi khác bao gồm kỹ nghệ Uluzzo ở Ý, và kỹ nghệ Balkan Szeletian.

thumb|Công cụ nạo làm từ vỏ [[Callista chione|trai mịn (Callista chione) tại Grotta dei Moscerini, Ý]] Người Neanderthal tại 10 di chỉ ven biển ở Ý (cụ thể là Grotta del Cavallo và Grotta dei Moscerini) và hang động Kalamakia, Hy Lạp chế tạo ra những cái nạo làm từ vỏ trai mịn rất bền, có bằng chứng họ tra chúng vào các cái cán gỗ. Tại Grotta dei Moscerini, khoảng 24% số vỏ sò có nguồn gốc từ đáy biển, tức là những người Neanderthal tại đây từng lội hoặc lặn xuống vùng nước nông để thu lượm chúng lên bờ. Trong vòng cung núi lửa Campanian tại Grotta di Santa Lucia ở Ý, người Neanderthal tại đây đã thu thập đá bọt xốp, có lẽ được dùng để đánh bóng mũi phóng.

Tại Abri du Maras, Pháp, các sợi xoắn và một đoạn dây sợi trong vỏ cây 3-lớp được cho là sản phẩm của người Neanderthal chỉ ra rằng họ biết sản xuất dây buộc, nhưng không rõ công cụ này phổ biến thế nào vì các vật liệu được sử dụng để tạo ra chúng (chẳng hạn như lông động vật, da sống, gân, hoặc sợi thực vật) bị phân hủy sinh học và có tính bảo quản rất kém. Công cụ này chứng tỏ người Neanderthal có kiến ​​thức cơ bản về dệt và thắt nút, từ đó mà họ có thể sản xuất được các công cụ bậc cao hơn. Mảnh dây có niên đại 52–41 nghìn năm trước là bằng chứng trực tiếp lâu đời nhất về kỹ thuật sợi, còn các hạt vỏ đục lỗ 115.000 năm tuổi từ Cueva Antón có thể xâu lại thành vòng cổ là bằng chứng gián tiếp lâu đời nhất về kỹ thuật sợi. Năm 2020, nhà khảo cổ học người Anh Rebecca Wragg Sykes bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với phát hiện trên. Bà chỉ ra rằng sợi dây rất yếu nên nó chỉ có một số chức năng hạn chế ví dụ như gắn hoặc xâu chuỗi các vật thể nhỏ.

Bản ghi hóa thạch cho thấy người Neanderthal thường sử dụng các tấm da thú và vỏ cây bạch dương, và có lẽ dùng chúng để đựng thực phẩm, song điều này chỉ dựa trên bằng chứng suy đoán gián tiếp, bởi vì hai vật liệu này rất hiếm khi hóa thạch nguyên vẹn. Người Neanderthal ở Hang Kebara, Israel, dường như đã sử dụng mai của loài rùa cạn Testudo graeca làm đồ đựng.

Tại di chỉ Poggetti Vecchi của Ý, các nhà khảo cổ đã tìm thấy bằng chứng người Neanderthal dùng lửa hơ nóng bề mặt cành hoàng dương để chế tác gậy moi đất, một dụng cụ rất phổ biến ở các xã hội săn bắn hái lượm.

Lửa và xây dựng

Nhiều di chỉ Moustier có bằng chứng về đám cháy mặc dù không rõ liệu đây là lửa do người Neanderthal tự nhóm hay lấy từ nguồn thiên nhiên (sét, dung nham, v.v). Các bằng chứng gián tiếp về khả năng nhen nhóm lửa của người Neanderthal bao gồm các chất cặn pyrit sót lại trên hàng chục công cụ đẽo hai mặt giai đoạn Moustier muộn (khoảng 50.000 năm trước) ở tây bắc nước Pháp và tập hợp chiết xuất từ tinh thể được người Neanderthal dùng để hạ nhiệt bén lửa của gỗ. Ngoài ra, họ còn biết mở mang một khu vực nhằm tạo không gian để sinh hoạt, ghè đẽo công cụ, mổ thịt, cất bếp sưởi và lưu trữ củi. Cũng có những di chỉ Neanderthal thiếu các bằng chứng như vậy, chắc hẳn là bởi các yếu tố tự nhiên tại đó đã xóa mất dấu vết. Ở Cueva de Bolomor tại Tây Ban Nha, bếp sưởi được xếp sát vách nhằm cho khói bốc lên tới trần hang, rồi men theo đó thoát ra ngoài. Ở Grotte du Lazaret tại Pháp, hệ thống hang thông gió sẵn vào mùa đông vì nhiệt độ trong hang cao hơn nhiệt độ ngoài trời; chính vì vậy, người Neanderthal chỉ lui tới hang này vào mùa đông.

Di chỉ lộ thiên Moldova I 44.000 năm tuổi tại Ukraine còn lưu lại một cấu trúc lều dạng vòng với kích thước . Nó được làm từ xương voi ma mút, dùng cho mục đích cư trú lâu dài của nhiều người Neanderthal, và chắc hẳn đã rất tốn thời gian để xây dựng. Bên trong có dấu vết c

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Neanderthal** (phát âm tiếng Anh: , còn được viết là **Neandertal**, phiên âm tiếng Việt: **Nêanđectan**, với các danh pháp khoa học: **_Homo neanderthalensis_** hay **_Homo sapiens neanderthalensis_**) Nhiều học giả khác đề xuất
thumb|Phân bố của _Homo neanderthalensis_ và các di chỉ chính. Phía bắc và đông có thể kéo dài đến Okladnikov ở [[Dãy núi Altay|Altay và Mamotnaia ở Ural]] thumb|Quá trình người hiện đại tiền sử
**Người Denisova** là một loài hoặc một phân loài người cổ xưa từng sinh sống trên hầu khắp châu Á khoảng từ giai đoạn sơ kỳ tới trung kỳ đá cũ (theo các chứng cứ
thumb|Hộp sọ [[Cro-Magnon 1 của một cá nhân già lão]] **Người hiện đại Châu Âu sơ khai** (; viết tắt là **EEMH**), hay **người Cro-Magnon** (phiên âm tiếng Việt: **Crômanhôn** hay **Crô-manhông**), là các quần
thumb|Mô hình [[Phát sinh chủng loại học|phát sinh loài của _H. sapiens_ trong 600 Ka (trục tung). Trục hoành là vị trí địa lý; trục tung thể hiện thời gian trong hàng nghìn năm trước.
thumb|Mẫu vật [[Skhul V có niên đại 100-80 ngàn năm trước, được phát hiện ở Israel]] Thuật ngữ **người hiện đại sơ khai** (; viết tắt là **EMH**), **người hiện đại về mặt giải phẫu**
**Người**, **con người**, **loài người** hay **nhân loại** (danh pháp khoa học: **_Homo sapiens_** hay **_Homo sapiens sapiens_**, nghĩa đen: **người tinh khôn**) là loài linh trưởng đông đảo và lan rộng nhất. Người có
**Người Melanesia** là những cư dân chính của vùng Melanesia. Hầu hết họ nói một trong _các ngôn ngữ Papua_, mặc dù một vài nhóm như Molucca, Motu và Fiji nói các tiếng thuộc họ
thumb|upright=1.5|Sự phân tán liên tiếp của
_[[Homo erectus_ (vàng),
_Homo neanderthalensis_ (son) và
_Homo sapiens_ (đỏ).]] thumb|Bản đồ về sự đa dạng hóa ban đầu của loài người hiện đại,
thumb| "[[Homo rhodesiensis|Sọ Broken Hill 1" (hay Sọ Kabwe) _Homo rhodesiensis_: định tuổi là 130 Ka (theo định tuổi _amino acid racemization_) hoặc 800 đến 600 Ka (cùng thời với _Homo erectus_), tùy theo phương
thumb|_Eoanthropus dawsoni_ vẽ năm 1913 **Hóa thạch người Piltdown** (Piltdown Man) là một **_trò đánh lừa_** cổ sinh học, trong đó các mảnh xương đã được trưng bày như là hóa thạch của một người
**Chi Người** (danh pháp khoa học: **_Homo_** Linnaeus, 1758) bao gồm loài người tinh khôn (_Homo sapiens_) và một số loài gần gũi. Chi Người được cho rằng có mặt cách đây 2,5 triệu năm
thumb|Lược đồ họ [[Hominidae: các phân họ Ponginae và Homininae, và các nhánh: _Pongo_ (đười ươi), _Gorilla_ (khỉ đột), _Pan_ (tinh tinh) và _Homo_]] **Tiến hóa của loài người** là quá trình tiến hóa dẫn
thumb|Mô hình nguồn gốc đa vùng của loài người. Các đường ngang biểu diễn dòng gen giữa các dòng dõi khu vực. Thuyết **Nguồn gốc đa vùng của người hiện đại**, hay **thuyết tiến hóa
**Hang động Apidima**, là một quần thể gồm bốn hang nhỏ, Hóa thạch _H. sapiens_, đến thời điểm năm 2019, ví dụ sớm nhất được biết đến của người hiện đại bên ngoài châu Phi.
**Người Rừng** là một sinh vật bí ẩn được cho là sống ở Việt Nam, có hình dạng giống loài Bigfoot hoặc Yeti. Sinh vật này đi bằng hai chân, thẳng đứng và đã có
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
**_Homo naledi_** là một loài người cổ xưa được phát hiện vào năm 2013 trong hang động Rising Star thuộc khu khảo cổ Cái nôi của loài người, Nam Phi, có niên đại về thời
**Jebel Irhoud** (; ) là một địa điểm khảo cổ nằm gần Sidi Moktar, cách Marrakesh, Morocco khoảng 100 km (60 dặm) về phía tây. Nó được ghi nhận cho các hóa thạch của loài người
**Hang Denisova** là một hang động ở Nga. Hang này nằm ở vùng Altai, gần làng Chorny Anui (Чёрный Ануй), cách Barnaul khoảng 150 km về phía Nam. Hang động nằm ở độ cao 28 m
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
**_Homo erectus_** (nghĩa là "người đứng thẳng", từ tiếng Latinh _ērigere_, "đứng thẳng"), còn được dịch sang tiếng Việt là **_trực nhân_**, là một loài người tuyệt chủng từng sinh sống trong phần lớn khoảng
**The Incredible Human Journey** (tạm dịch: **Hành trình đáng kinh ngạc của nhân loại**) là một bộ phim tài liệu khoa học năm tập, và cuốn sách đi kèm, do Alice Roberts chủ biên và
**Gibraltar** ( , ) là một Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh và tồn tại như một thành bang nằm ở mũi phía nam của Bán đảo Iberia. Nó có diện tích 6,7 km2 (2,6
Trong di truyền học loài người, **Adam nhiễm sắc thể Y** (Y-MRCA) là tổ tiên chung gần nhất (MRCA) mà từ đó tất cả những người còn sống có nguồn gốc được truyền từ cha
**Thảm họa Toba** hay sự kiện **siêu phun trào Toba** là vụ phun trào siêu núi lửa đã xảy ra tại vị trí ngày nay là hồ Toba ở Sumatra, Indonesia, vào thời gian giữa
**_Homo heidelbergensis_** ("người Heidelberg", là tên gọi của Đại học Heidelberg) là một loài đã tuyệt chủng trong chi _Homo_, loài này có thể là tổ tiên cùng nhánh của _Homo neanderthalensis_ ở châu Âu
**Homo rhodesiensis** là Hominin đã bị tuyệt chủng của chi Homo, được mô tả qua hóa thạch sọ ở Kabwe.Những so sánh khác về hình thái hài cốt đã được tìm thấy từ cùng thời
**_Homo sapiens idaltu_** là một phân loài đã tuyệt chủng của người _Homo sapiens_ sống cách đây 160.000 năm trước ở châu Phi trong thế Pleistocen. "Idaltu" từ chữ Saho-Afar có nghĩa là "đàn anh"
**Nguồn gốc ngôn ngữ** và quan hệ của ngôn ngữ đối với tiến hóa của loài người là chủ đề học thuật đã được bàn luận trong nhiều thế kỷ. Mặc dù vậy, ta vẫn
nhỏ|Sự kết hợp của các nhiễm sắc thể của tổ tiên để lại những tàn tích đặc biệt của các telomere, và một tâm động tiền đình **Nhiễm sắc thể số 2** là một trong
thumb|[[Tranh hang động thời kỳ đồ đá cũ muộn (16 Ka BP) ở hang Lascaux, Pháp]] **Hiện đại hành vi** (tiếng Anh: _Behavioral modernity_) là tập hợp các đặc điểm hành vi và nhận thức,
**Svante Pääbo** (; sinh ngày 20 tháng 4 năm 1955) là nhà di truyền học người Thụy Điển chuyên về lĩnh vực di truyền học tiến hóa. Là một trong những người sáng lập cổ
Những **di cốt Omo** là bộ sưu tập xương Hominini, được phát hiện trong giai đoạn từ năm 1967 tới năm 1974 tại vị trí của _thành hệ Omo Kibish_ gần sông Omo, trong Vườn
right|thumb|Tòa nhà chính của MPI EVA ở [[Leipzig, Đức]] right|thumb|Nhìn từ bên ngoài **Viện nghiên cứu nhân chủng tiến hóa Max Planck** (, viết tắt là **MPI EVA**) là một viện nghiên cứu có trụ
**Thời đại Đồ đá** hay **Paleolithic** là một thời kỳ tiền sử kéo dài mà trong giai đoạn này đá đã được sử dụng rộng rãi để tạo ra các công cụ có cạnh sắc,
thumb|Cảnh quan hoang dã vào [[Thế Canh Tân muộn ở Bắc Tây Ban Nha, bởi Mauricio Antón (trái sang phải: _Equus ferus_, _Mammuthus primigenius_, _Rangifer tarandus, Panthera leo spelaea, Coelodonta antiquitatis_)]] Kỷ Đệ tứ (từ
phải|nhỏ|275x275px| Lưu huỳnh tại miệng núi lửa Solfatara nhỏ|275x275px| [[Địa hình|Bản đồ địa hình]] **Cánh đồng Phlegraei** (; tiếng Anh: _Phlegraean Fields_, nghĩa là "cánh đồng Hỏa Diệm/cánh đồng bùng cháy", bắt nguồn từ tiếng
thumb|right|Ảnh chụp hiển vi điện tử của hai ty thể trong tế bào mô phổi động vật có vú cho thấy chất nền và những lớp màng bao bọc bào quan. **Ty thể** (tiếng Anh:
**Croatia** (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là "C'roát-chi-a" hoặc "Crô-a-ti-a"), tên chính thức **Cộng hòa Croatia** (tiếng Croatia: _Republika Hrvatska_ ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
[[Phù hiệu áo giáp năm 1495 trở thành quốc huy Croatia đương đại.]] Những dấu hiệu sớm nhất của chính thể Croatia biệt lập được cho là thế kỷ VII sau Công Nguyên, nhưng phải
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
**Lịch sử thành phố Beograd** truy ngược về 7.000 năm trước Công nguyên kéo dài cho tới ngày nay khi Beograd giữ vị trí thủ đô Serbia. Văn hóa Vinča, một trong những nền văn
nhỏ|Cảnh núi Carmel năm 1894 **Núi Carmel** (tiếng Hebrew הַר הַכַּרְמֶל), _Har HaKarmel_, phiên âm tiếng Việt: _Các-men_, _Ca-mê-lô_, _Cạc-mên_, _Cát Minh_, nghĩa đen: vườn nho của Chúa); , _Kármēlos_; , _Kurmul_) là một dãy
**_TOP gogo, mùa 1_** là mùa đầu tiên của _Top gogo_. Chương trình được công chiếu vào ngày 13 tháng 5 năm 2012 trên kênh Rustavi 2 với 13 thí sinh được chọn để cạnh
Eo biển Gibranta nhìn từ không gian **Eo biển Gibraltar** (tiếng Ả Rập: مضيق جبل طارق; tiếng Tây Ban Nha: _Estrecho de Gibraltar_; tiếng Anh: _Strait of Gibraltar_) là một eo biển hẹp nối liền
**Cơ nhị đầu cánh tay** (trong thể hình hay gọi là **cơ bắp tay trước**, tiếng Anh: **_biceps_**; ) là một cơ lớn nằm ở vùng cánh tay trước, giữa vai và khuỷu tay. Cả
nhỏ|Jaskinia raj Poland **Hang Thiên Đường** (, phát âm 'Yaskeenya Rye') là một hang động đá vôi karst nằm ngang nằm bên trong ngọn đồi Malik, ở phía nam Kielce, Świętokrzyskie, Ba Lan. Nó là
**Janet Kelso** (sinh năm 1975) là một nhà sinh học tính toán người Nam Phi và trưởng nhóm của Nhóm Nghiên cứu Minerva về Tin sinh học tại Viện nhân chủng học tiến hóa Max