✨Người hiện đại châu Âu sơ khai
thumb|Hộp sọ [[Cro-Magnon 1 của một cá nhân già lão]]
Người hiện đại Châu Âu sơ khai (; viết tắt là EEMH), hay người Cro-Magnon (phiên âm tiếng Việt: Crômanhôn hay Crô-manhông), là các quần thể người hiện đại sơ khai (Homo sapiens) từ Tây Á đầu tiên đặt chân đến Châu Âu, và sinh sống liên tục tại đây từ khoảng sớm nhất là 56.800 năm trước. Họ đã tiếp xúc và giao phối với các quần thể Neanderthal bản địa (H. neanderthalensis) của Châu Âu và Tây Á, loài mà về sau tuyệt chủng vào khoảng 40.000 đến 35.000 năm trước. Tất cả người EEHM kể từ thời điểm 37.000 năm trước trở đi đều là hậu duệ của một quần thể nền móng duy nhất, có đóng góp thành phần di truyền cho người Châu Âu hiện đại. Người EEMH là chủ nhân của nhiều nền văn hóa hậu kỳ đá cũ, quan trọng nhất trong số đó là văn hóa Aurignac, được tiếp nối bởi văn hóa Gravette vào khoảng 30.000 năm trước. Do biến đổi khí hậu trong giai đoạn Cực đại băng hà cuối cùng (LGM), văn hóa Gravette chia tách tiếp thành hai nền văn hóa là Epi-Gravette ở phía đông và Solutré ở phía tây, đạt đỉnh cao cách đây 21.000 năm. Đồng thời với sự ấm lên của Châu Âu lục địa, văn hóa Solutré dần chuyển biến thành văn hóa Magdalénien vào 20.000 năm trước, và quần thể người này đã tái chiếm Châu Âu. Văn hóa Magdalénien và Epi-Gravette đã mở đường cho sự phát triển của các nền văn hóa thời đại đồ đá giữa, song song với sự tuyệt chủng của các loài mồi lớn và sự khép lại của thời kỳ băng hà cuối cùng.
Về mặt giải phẫu, người EEMH tương đối giống người Châu Âu hiện đại, song họ có thân hình lực lưỡng hơn, khuôn mặt rộng hơn, đường gờ lông mày nổi bật hơn, và răng to hơn. Các mẫu vật EEMH cổ nhất sở hữu một số đặc điểm giống người Neanderthal. Những người EEMH đầu tiên có làn da sẫm màu; trên thực tế, phải tới khoảng 30.000 năm trước thì tính trạng da trắng ở người mới xuất hiện. Họ rất cao lớn, có vóc dáng ngang bằng người hiện đại hậu-công nghiệp; họ đã kiến tạo các tuyến giao thương có thể kéo dài tới , và thường xuyên săn bắt những loài thú lớn. Trước giai đoạn LGM, mật độ dân số EEMH còn khá thấp, tuy lại lớn hơn đáng kể mật độ dân số Neanderthal, có lẽ bởi tỉ lệ chết trẻ cao hơn của người Neanderthal; tuổi thọ trung bình của cả hai loài người đương thời đều dưới 40 tuổi. Sau thời kỳ LGM, mật độ dân số của họ tăng lên do các cộng đồng ít di chuyển hơn, tuy nhiên nhu cầu tiêu thụ thực phẩm tăng cao song song với sự khan hiếm thú mồi cỡ lớn đã khiến họ phải lệ thuộc hơn vào thú mồi cỡ nhỏ và thủy sản, hơn nữa còn khiến họ phải áp dụng kiểu săn lùa mồi và giết thịt cả đàn. Người EEMH biết chế tác vũ khí săn bắn như giáo mác, gẩy phóng lao và lao móc. Ngoài ra, họ đã thuần chủng được chó. Người EEMH dường như dựng các trại tạm bợ trên đường di chuyển, ví dụ như những chiếc lều làm bằng xương voi ma-mút trên Đồng bằng Đông Âu của văn hóa Gravette .
Niên đại
thumb|upright=1.3|Sơ đồ biểu thị địa điểm các di chỉ của [[văn hóa Aurignac trước Cực đại băng hà cuối cùng (LGM).]] Khi người hiện đại sơ khai (Homo sapiens) di cư vào Châu Âu, họ tiếp xúc với người Neanderthal (H. neanderthalensis) đã có mặt ở đó từ hàng trăm ngàn năm trước. Năm 2019, nhà cổ nhân học người Hy Lạp Katerina Harvati và đồng sự lập luận rằng hai mẫu sọ 210.000 năm tuổi được tìm thấy trong Hang Apidima, Hy Lạp, thuộc về người hiện đại chứ không phải người Neanderthal — nếu điều này đúng thì chứng tỏ quần thể người hiện đại ở đây có một lịch sử lâu dài đáng ngạc nhiên — song vào năm 2020, kết luận này bị bác bỏ bởi nhà cổ nhân học người Pháp và các đồng sự. Khoảng 60.000 năm trước, giai đoạn đồng vị oxy 3 khởi phát, đặc trưng với các kiểu mẫu khí hậu hỗn loạn kèm theo sự thoái lui bất thường của rừng cây cạnh các khu vực thảo nguyên. Ngoài ra, ta cũng đã phát hiện kỹ nghệ Bohunician Balkan bắt đầu từ 48.000 năm trước, rất có thể là hậu duệ của kỹ nghệ Emiran Levant, và các hóa thạch cổ thứ nhì có niên đại trong khoảng 45–43 ngàn năm trước ở Bulgaria, Ý, và Anh. Không rõ những người này khi tây tiến đã men theo sông Danube hay theo đường bờ Địa Trung Hải. Khoảng 45-44 ngàn năm trước, văn hóa tiền-Aurignac — nền văn hóa hậu kỳ đá cũ Châu Âu được công nhận rộng rãi nhất, có lẽ phát sinh từ văn hóa Ahmar Cận Đông — đã di tản khắp Châu Âu. Sau thời điểm 40.000 năm trước, đồng thời với sự kiện Heinrich 4, văn hóa Aurignac lõi biến đổi ở miền Nam-Trung Châu Âu, rồi nhanh chóng thay thế tất cả các nền văn hóa khác trên lục địa. Làn sóng nhập cư này của người hiện đại đã thay thế các quần thể Neanderthal cũng như kỹ nghệ Moustier của họ. Ở thung lũng Danube, nếu so sánh với các nền văn hóa trước, các địa điểm khảo cổ thuộc văn hóa Aurignac rất thưa thớt và lẻ tẻ cho tới tầm 35.000 năm trước. Từ đó trở đi, "văn hóa Aurignac Điển hình" cực kỳ phổ biến và kéo dài cho tới 29.000 năm trước. Hơn nữa ta cũng chưa rõ văn hóa Gravette bắt nguồn từ đâu, bởi lẽ nó rất khác biệt so với văn hóa Aurignac (có lẽ không phải hậu duệ). Hơn nữa cũng có tranh cãi tương ứng về niên đại xuất hiện sớm nhất của kỹ nghệ Gravette: giả thuyết trước thì cho rằng nó tọa lạc ở Đức tầm 37.500 năm trước, còn giả thuyết sau cho rằng nó là mái đá III 38-36 nghìn năm tuổi ở bán đảo Krym. Dù gì đi chăng nữa, văn hóa Gravette xuất hiện đúng thời điểm khí hậu Trái Đất hạ nhiệt đáng kể. Các sông băng bắt đầu thoái lui vào khoảng 20.000 năm trước, và văn hóa Solutré đã diễn tiến thành văn hóa Magdalénien rồi tái chiếm Tây-Trung Âu trong vòng vài nghìn năm kề sau. Trong giai đoạn ấm Bølling–Allerød, các gen Cận Đông bắt đầu hiện diện ở người Châu Âu, báo hiệu sự kết thúc cô lập di truyền tại lục địa này.
Người hiện đại đã hoàn toàn tái định cư Châu Âu vào đợt tối ưu khí hậu Toàn Tân (9-5 nghìn năm trước). Quần thể săn bắt-hái lượm phía tây (Western Hunter-Gatherers hay WHG) đồ đá giữa, cùng với quần thể Bắc Á-Âu cổ (Ancient North Eurasians hay ANE) hậu duệ của văn hóa Mal'ta–Buret' Siberi Quần thể săn bắt-hái lượm phía đông (EHG) xác định quanh dãy núi Ural cũng đã phát tán, và quần thể săn bắt-hái lượm Scandinavia (SHG) có vẻ là sự hỗn dung giữa WHG và EHG. Khoảng 4.500 năm trước, các nền văn hóa Yamna và Corded Ware từ những đồng cỏ phương đông đã mang đến Châu Âu đồ đồng, tiếng Ấn-Âu nguyên thủy, và ít nhiều thành phần di truyền như ngày nay mà ta thấy ở người Châu Âu.
Phân loại học
thumb|Phỏng dựng bán thân mẫu [[Cro-Magnon 1 già lão vào năm 1916]]
Người EEMH thường được gọi là "người Cro-Magnon" trong các tài liệu chuyên ngành lịch sử cho tới những năm 1990 khi mà thuật ngữ "người hiện đại về mặt giải phẫu" trở nên phổ biến hơn. Các hóa thạch và di vật từ thời đá cũ thực chất đã được biết đến từ hàng thập kỷ trước, song chúng lại được giới khoa học Tây phương bấy giờ diễn giải theo mô hình tạo hóa (vì quan niệm tiến hóa chưa được hiểu rõ). Chẳng hạn, mẫu vật Aurignac có biệt danh Red Lady of Paviland (thực chất là nam giới) từ Nam Wales từng được nhà địa chất học Reverend William Buckland hồi năm 1822 nhận dạng nhầm là một công dân của Anh thuộc La Mã. Các tác giả hậu thế thì tranh luận về vấn đề liệu bộ xương có phải là bằng chứng của người tiền-hồng thủy ở Anh, hay là nó đã bị cuốn trôi khỏi vùng định cư bởi một trận lũ lớn. Buckland cho rằng mẫu vật này là nữ giới bởi vì nó được chôn cùng các đồ tùy táng như vỏ sò, các cây gậy và vòng làm từ ngà, và một cái xiên làm từ xương chó sói; ngoài ra còn khẳng định (dường như chỉ mang tính chất cợt nhảm) đống trang sức là bằng chứng về thuật phù thủy. Phong trào đồng nhất luận lúc bấy giờ đang ngày càng được chấp thuận bởi đông đảo các nhà địa chất học, dẫn đầu bởi Charles Lyell; theo đó lập luận rằng các chất liệu hóa thạch có thể còn lâu đời hơn những gì được ghi trong Kinh Thánh.
Sau khi trước tác Nguồn gốc các loài của Charles Darwin được xuất bản vào năm 1859, các nhà nghiên cứu chủng tộc bắt đầu phân chia nhân loại thành các cận loài hoặc cận chủng giả định, dựa trên các chỉ số không đáng tin cậy và ngụy khoa học lấy từ các ngành nhân trắc học, tướng mạo học, và não tướng học, cho tới tận thế kỷ thứ 20. Hệ thống phân loại chủng tộc được áp dụng rộng ra cho các mẫu hóa thạch, bao trọn cả người EEMH và người Neanderthal, sau khi chiều sâu niên đại của chúng đã được công nhận rộng rãi. Một số cận chủng ví dụ khác của 'chủng Cro-Magnon' bao gồm: "H. pre-aethiopicus" cho một mẫu sọ ở Dordogne có "nét Ethiopic"; "H. predmosti" hay "H. predmostensis" cho một loạt các sọ tìm thấy ở Brno, Cộng hòa Czech, được cho là dạng quá độ giữa người Neanderthal và EEMH;
Các 'chủng tộc hóa thạch' này, kèm theo các ý tưởng của Ernst Haeckel về sự tồn tại của các chủng tộc lạc hậu chưa đạt đến độ chín muồi văn minh (còn gọi là chủ nghĩa Darwin xã hội), đã gieo rắc vào tâm thức người Châu Âu bấy giờ cái quan điểm cho rằng: người da trắng văn minh tiến hóa từ tổ tiên vượn nhân nguyên thủy ngu đần thông qua một loạt các chủng tộc man dã trung gian. Hồi đó, đường gờ lông mày nổi bật được cho là tính trạng giống vượn, do vậy nên người Neanderthal (kể cả thổ dân Úc) bị coi là chủng tộc thấp kém. Một trong những nỗ lực sớm nhất nhằm phân loại người EEMH đã được thực hiện bởi hai nhà nhân chủng học Joseph Deniker và William Z. Ripley vào năm 1900. Hai ông nhận xét EEMH là những người tiền-Arya cao ráo và thông minh, thượng đẳng hơn các chủng khác, phát tích từ vùng Scandinavia và Đức. Học thuyết chủng tộc về sau xoay quanh các chủng tộc (cận loài) thượng đẳng, tóc vàng hơn, da trắng hơn, tiến hóa ở Trung Âu và phát tán theo các làn sóng thay thế tổ tiên da tối màu, cô đọng ở "chủng Bắc Âu". Những khẳng định kiểu này cộng hưởng với chủ nghĩa duy Bắc Âu và chủ nghĩa Toàn Đức (tức là, chủng Arya thượng đẳng), nổi tiếng ngay trước Thế chiến I, về sau được Đức Quốc xã sử dụng để hợp thức hóa cuộc chinh phục Châu Âu và tính thượng đẳng của dân tộc Đức trong Thế chiến II.
Về mặt thể chất, người EEMH giống người ngày nay ở nhiều bình diện: hộp sọ hình cầu, khuôn mặt dẹt, gờ lông mày mảnh dẻ, và cằm nổi rõ. Tuy vậy, xương EEMH dày và khỏe hơn. Những EEMH sớm nhất thường sở hữu các đặc điểm giống người Neanderthal. Cụ thể, tộc Aurignac thể hiện nhiều tính trạng giống người Neanderthal nhất, ví dụ như chỏm sọ hơi bẹt và búi chẩm trồi ra phía sau sọ (đôi khi khá nổi bật). Các đặc điểm này ở tộc Gravette có tần suất ít đi hẳn. Trong chuyên luận hình thái học năm 2007 của mình, nhà cổ nhân học Erik Trinkaus kết luận rằng những đặc điểm như thế là kết quả của sự xâm nhập gen Neanderthal, rốt cuộc đã bị chắt lọc khỏi vốn gen của người hiện đại.
thumb|left|Phục dựng chân dung mẫu vật [[Oase 2 đã 40.000 năm tuổi. Cá nhân này không có quan hệ huyết thống với bất kỳ một người còn sống nào.
Trước khi ngành di truyền học phát triển như ngày nay, người ta đã từng lầm tưởng rằng EEMH có làn da màu trắng giống người Châu Âu hiện nay, đặc điểm mà giúp họ hấp thụ vitamin D từ ánh sáng yếu ớt của Mặt Trời phương bắc. Tuy nhiên, trong số 3 gen chính góp phần tạo nên làn da trắng ấy — KITLG, SLC24A5, và SLC45A2 — thì hai cái sau, cũng như gen TYRP1 có liên hệ với màu tóc và màu mắt sáng, mới chỉ trải qua chọn lọc dương tính vào khoảng muộn nhất là 19-11 nghìn năm về trước trong thời kì quá độ đồ đá giữa. Thời điểm muộn như vậy dường như là do dân số thấp và/hoặc sự di cư vượt lục địa cần thiết cho sự thay đổi màu da, màu tóc, và màu mắt hiếm khi xảy ra. Riêng gen KITLG trải qua chọn lọc dương tính ở người EEMH (cũng như ở người Đông Á) sớm tận 30.000 năm về trước.
Di truyền học
Tuy người hiện đại về mặt giải phẫu đã có mặt bên ngoài châu Phi dường như sớm tận 250.000 năm trước trong các quãng thời gian biệt lập, song các quần thể người ngoại-Phi châu hiện nay bắt nguồn chủ yếu từ cuộc bành trướng diễn ra cách đây 65–55 nghìn năm. Sự biến này vốn phát sinh từ làn sóng mở rộng nội vùng Đông Phi của nhóm đơn bội ADN ty thể L3. Phân tích ADN ty thể xác định EEMH là nhánh chị em của các nhóm người Đông Á hậu kỳ đá cũ, theo đó thì sự phân tách giữa hai dòng người có lẽ xảy ra cách đây 50.000 năm.
Các nghiên cứu di truyền ban đầu về EEMH vào năm 2014, cụ thể là mẫu Kostenki-14 37.000 năm tuổi, đã xác định 3 dòng dõi chính mà cũng xuất hiện ở người Châu Âu hiện nay: một dòng liên hệ với tất cả EEMH hậu thế; một dòng "Basal Eurasian" tách khỏi tổ tiên chung của người Âu và người Đông Á trước khi hai nhóm này phân kỳ; và một dòng có liên hệ với di cốt 24.000 năm tuổi tìm thấy tại di chỉ văn hóa Mal'ta–Buret' Siberi (gần Hồ Baikal). Trái lại, Fu et al. (2016), khi đánh giá các mẫu vật Châu Âu cổ hơn, bao gồm hai mẫu Ust'-Ishim và Oase-1 đã 45.000 năm tuổi, không tìm thấy bất cứ dấu vết nào của dòng "Basal Eurasian", và họ cũng không tìm thấy bất cứ bằng chứng nào cho sự xâm nhập gen Mal'ta–Buret' khi xem xét cỡ mẫu EEMH lớn hơn bao quát toàn bộ giai đoạn hậu kỳ đá cũ. Thay vào đó, nghiên cứu cho rằng phần gen lạ kia của người Châu Âu có lẽ bắt nguồn từ sự xâm nhập gen của các quần thể Cận Đông và Siberia diễn ra vào thời kỳ đá mới và đồ đồng (bắt đầu khá muộn vào khoảng 14.000 năm trước). Tất cả các mẫu EEMH, tính từ Kostenki-14 trở đi, đều đóng góp cho bộ gen người hiện nay và gần với người Châu Âu hơn người Đông Á trên phả hệ di truyền. Các mẫu EEMH trước dường như không để lại hậu duệ nào, và dường như cũng chẳng có quan hệ họ hàng, bởi lẽ mỗi mẫu lại đại diện cho một dòng dõi biệt lập khác nhau, hoặc sở hữu thành phần di truyền lai tạp giữa các dòng lớn, hoặc là hậu duệ của các tổ tiên đã phân kỳ từ lâu. Vì vậy, nghiên cứu kết luận rằng, kể từ khoảng 37.000 năm trước trở đi, EEMH đã phát sinh từ một quần thể nền móng duy nhất và bị cô lập sinh sản khỏi phần còn lại của thế giới. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho biết di cốt Aurignac tại Grottes de Goyet, Bỉ, có quan hệ mật thiết với các cư dân Magdalénien tại Cueva de El Mirón, Tây Ban Nha, hơn là với các cư dân Gravette Đông Âu. Văn hóa Magdalénien thời đá cũ sản xuất rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, thậm chí còn biết trang trí các vật dụng đơn sơ hàng ngày.
Xã hội
Tôn ti xã hội
thumb|Bức tượng Vệ Nữ đầu tiên được phát hiện, có biệt danh "[[Vénus impudique" ("Vệ Nữ khiếm nhã"), có lẽ miêu tả thân hình của một thiếu nữ]] Trái ngược với sự phổ biến của chế độ phụ quyền trong các xã hội lịch sử, ý tưởng về một xã hội tiền sử chủ yếu là chế độ mẫu quyền hay trọng mẫu (centred on motherhood) lần đầu tiên được nêu lên vào năm 1861 bởi học giả luật khoa Johann Jakob Bachofen. Các mô hình sớm nhất về giả thuyết này cho rằng chế độ một vợ một chồng không quá phổ biến trong quá khứ vì vậy, dòng cha khó có thể được truy gốc một cách tường tận bằng dòng mẹ kết quả là sự hình thành một xã hội mẫu hệ (và mẫu quyền). Sau đó, các chế độ mẫu quyền bị chinh phục bởi các chế độ phụ quyền vào thuở khai sinh văn minh. Sự biến chuyển từ mẫu quyền sang phụ quyền và sự chấp nhận giả sử chế độ đơn phối được coi là những bước tiến lớn trong ngành khảo cổ. Tuy nhiên, khi những đại biểu hiện vật đá cũ đầu tiên của nhân loại được phát hiện, cái gọi là hình nhân Vệ nữ thường khắc họa hình ảnh ngực, mông, và âm hộ của phụ nữ (những khu vực trên cơ thể mà thường bị tình dục hóa trong văn hóa phương Tây) lại được diễn giải là những hình ảnh khiêu dâm về bản chất. Ví dụ, bức tượng Vệ nữ đầu tiên được phát hiện có tên là "Vénus impudique" ("Vệ nữ khiếm nhã") theo lựa chọn của nhà thám hiểm Paul Hurault, Đệ bát Hầu tước Vibraye, vì nó không mặc quần áo và lộ rõ âm hộ.