✨Homo naledi

Homo naledi

Homo naledi là một loài người cổ xưa được phát hiện vào năm 2013 trong hang động Rising Star thuộc khu khảo cổ Cái nôi của loài người, Nam Phi, có niên đại về thời Canh Tân giữa khoảng 335.000–236.000 năm trước. Khám phá ban đầu bao gồm 1.550 mẫu vật, đại diện cho 737 yếu tố xương cốt khác nhau của ít nhất 15 cá thể. Tuy số lượng mẫu được phát hiện rất cao, song vị trí của chủng người này trong chi Homo vẫn chưa sáng tỏ.

Ngoài những điểm tương đồng với nhiều chi Homo đương thời, họ còn lưu tồn một số đặc điểm từ tổ tiên Australopithecus và các chi Homo sơ khai (hiện tượng này còn có tên là tiến hóa khảm). Đặc điểm điển hình của họ là dung tích sọ nhỏ chỉ vào khoảng 465–610 cm3 so với 1.270–1.330 cm3 ở người hiện đại. Chiều cao trung bình của họ là ; cân nặng trung bình là . Ước tính chỉ số hình thành não bộ ở người Naledi là 4,5 song giải phẫu não khá giống với người hiện đại, do đó, mức độ phức tạp tư duy của họ rất có thể ngang bằng người hiện đại. Khám phá về loài người não nhỏ sống cùng thời với các loài người não lớn đã khiến giới khoa học phải thay đổi quan niệm truyền thống rằng bộ não lớn đem lại lợi thế tiến hóa cao, và các đặc điểm trộn lẫn của chủng người mới này đã chỉ ra rằng chi Homo cũng rất đa dạng về mặt giải phẫu.

Giải phẫu học chỉ ra rằng H. naledi có khả năng di chuyển đường dài với sải chân và dáng đi giống người, song còn có thể di chuyển trên tán cây điêu luyện hơn các Homo khác. Ngoài ra xương của họ thích nghi tốt hơn cho hành vi leo trèo và sống trên cây hơn là chạy bền. Giải phẫu nha khoa cho thấy họ tiêu thụ thức ăn cứng phủ bởi nhiều hạt sạn như bụi hoặc đất. Mặc dù ta chưa tìm thấy bằng chứng về công cụ bằng đá hoặc bất kỳ dấu hiệu nào của văn hóa vật chất liên quan đến chủng người này, họ dường như đủ khéo léo để sản xuất và cầm nắm công cụ, và do vậy họ có khả năng chế tạo các kỹ nghệ thời kỳ đá giữa. Có giả thuyết cho rằng số di cốt trong hang động là bằng chứng của hành vi táng tục ở H. naledi, và rằng họ đã được đưa vào đó theo chủ đích.

Phát hiện

left|thumb|Bản đồ [[hang động Rising Star đánh dấu vị trí Buồng Dinaledi màu vàng và Buồng Lesedi màu đỏ]] Ngày 13 tháng 9 năm 2013, trong quá trình khám phá hệ thống hang động Rising Star tại khu khảo cổ Cái nôi của nhân loại, hai nhà thám hiểm Rick Hunter và Steven Tucker đã phát hiện hóa thạch hominin ở dưới cùng của Buồng Dinaledi (Dinaledi Chamber). Vào ngày 24, họ quay trở lại hang để chụp hình, rồi tới ngày 1 tháng 10 gửi ảnh cho các nhà cổ sinh vật học Nam Phi là Pedro Boshoff và Lee Rogers Berger. Tổng cộng, hơn 1.550 mảnh xương của ít nhất 15 cá thể (9 chưa trưởng thành và 6 trưởng thành) đã được thu thập từ lớp trầm tích giàu đất sét của căn buồng. Berger và các đồng nghiệp sau đó công bố thành quả nghiên cứu của mình vào năm 2015. Với số lượng cá thể lớn, đủ cả hai giới tính và đủ các lứa tuổi, đây được coi là bộ sưu tập hóa thạch hominin phong phú nhất từng được phát hiện tại châu Phi. Ngoài bộ sưu tập tại Sima de los Huesos và các mẫu người Neanderthal và người hiện đại muộn, đây có thể coi là bộ sưu tập toàn diện nhất về mặt giải phẫu, qua nhiều độ tuổi và từ nhiều cá thể, trong số các bản ghi hóa thạch hominin từ trước đến nay.

Phân loại

Năm 2017, các nhà khoa học định tuổi ba cái răng di cốt bằng phương pháp cộng hưởng spin điện tử (ESR) và phân rã uranium-thorium (U-Th); bên cạnh đó cũng định tuổi lớp trầm tích quanh nơi hài cốt nguyên trạng được tìm thấy bằng phương pháp U-Th và cổ địa từ; kết quả là chủng người nadeli được cho là đã sống cách đây 335.000–236.000 năm trong thế Canh Tân trung. Giới chuyên gia trước đó cho rằng các hài cốt kia có niên đại 1~2 triệu năm, bởi vì không ai ngờ rằng lại tồn tại một loài hominin não nhỏ ở châu Phi với niên đại gần hiện tại như vậy. Phát hiện này đã khiến giới cổ nhân học phải chỉnh đốn quan điểm trước đây về sự tiến hóa loài người rằng một bộ não lớn nhất thiết phải có một lợi thế tiến hóa.

Không rõ những cá thể H. naledi được tìm thấy tại buồng Naledi là một quần thể sống biệt lập nội khu Cái nôi của loài người hay là một phần của cụm quần thể sống rải rác khắp châu Phi. Nếu phạm vi sinh sống của họ thật sự lớn như vậy, thì một số hóa thạch hominin mảnh khảnh ở châu Phi, trước đây được cho là H. erectus hậu kỳ, nhiều khả năng là các mẫu vật đại diện cho H. naledi.

thumb|center|upright=3.5|So sánh hộp sọ H. naledi với những loài Homo não nhỏ khác: [[Homo habilis|H. habilis, H. erectus georgicus, và H. floresiensis.]]

Giải phẫu

Hộp sọ

thumb|Hộp sọ mã LES1 nhìn từ bốn phía Hai hộp sọ nam giới H. naledi từ buồng Dinaledi có thể tích rơi vào tầm , và hai hộp sọ nữ giới có thể tích tầm . Thể tích một hộp sọ nam giới H. naledi từ buồng Lesedi là . Thể tích sọ của các mẫu vật tại Buồng Dinaledi rất gần với australopithecine; để đối chiếu, thể tích sọ H. erectus trung bình vào khoảng Trái lại, thể tích sọ của mẫu vật tại Buồng Lesedi lại giống với H. habilisH. e. georgicus hơn. Chỉ số hình thành não bộ (encephalization quotient) của H. naledi được ước tính đạt mức 3,75; tức ngang bằng H. floresiensis song thấp hơn mọi loài Homo khác. Chỉ số hình thành não bộ của các Homo đương thời đều trên 6, riêng H. e. georgicus đạt 3,55 và A. africanus đạt 3,81. Hình thái thùy trán giống ít nhiều một bộ não Homo điển hình bất kể kích thước, khác hẳn với chi Australopithecus. Vùng này của não bộ liên quan đến khả năng sản xuất công cụ, phát triển ngôn ngữ và tập tính xã hội. Tốc độ hình thành răng cửa khá giống người hiện đại. Kích thước và hình dạng tổng thể của răng hàm tương đồng với ba mẫu vật Homo chưa xác định loài tại Swartkrans và Động Koobi Fora ở Đông Phi, và kích thước tương tự (hình dạng không tương tự) với H. sapiens thế Canh Tân. Cổ răng hàm tương tự theo tỉ lệ với A. afarensisParanthropus.

Không giống như người hiện đại và các loài Homo đương thời, H. naledi thiếu một số đặc điểm răng phụ trợ. Bên cạnh đó, nhiều cá thể sở hữu đặc điểm núm metacone (đường giữa phía lưỡi) và hypocone (bên phải phía môi) trên răng hàm thứ 2 và thứ 3, và một núm hình chữ Y (đường gờ ở bên môi về phía má) trên cả 3 răng hàm. Tuy nhiên, H. naledi vẫn sở hữu nhiều đặc điểm nha khoa tương đồng so với các Homo đương thời.

Xương đe của H. naledi giống với tinh tinh, khỉ đột, và Paranthropus hơn là Homo. Giống như H. habilisH. erectus, H. naledi sở hữu một gờ lông mày với một đường hở ở ngay phía trên, và giống với ở H. erectus, một búi chẩm lồi ra rất rõ ở phía sau sọ. Mặt của H. naledi có nhiều điểm tương đồng với mặt của H. rudolfensis. Xét về khung xương, cá thể chưa trưởng thành mang mã số DH7 có tốc độ tăng trưởng tuân theo các quỹ đạo giống vượn của mẫu MH1 (A. sediba) và cậu bé Turkana (H. ergaster). Tuy nhiên, bởi vì quá trình phát triển răng H. naledi rất giống người hiện đại, ta không thể loại bỏ trường hợp tốc độ tăng trưởng của họ chậm hơn thế. Nếu chấp nhận giả thuyết tốc độ tăng trưởng nhanh, DH7 qua đời khi 8–11 tuổi, song nếu áp dụng tốc độ tăng trưởng chậm, DH7 qua đời khi 11–15 tuổi.

Xét về cột sống, chỉ có hai mẫu đốt sống ngực thứ 10 và 11 được bảo quản (dường như thuộc về cùng một cá thể), và có kích thước tương đối giống với đốt sống ngực của Homo, tuy nhiên về kích thước tuyệt đối thì thuộc hàng rất nhỏ trong số các hominin. Các mỏm theo hướng giải phẫu ngang của đốt sống rất giống với của người Neanderthal. Các kênh thần kinh bên trong to tương đối, giống như ở người hiện đại, người Neanderthal, và H. e. georgicus. Xương sườn thứ 11 thẳng tắp như của A. afarensis, còn xương sườn thứ 12 tráng kiện xét theo tiết diện như của người Neanderthal. Giống như người Neanderthal, xương sườn thứ 12 dường như có chức năng nâng đỡ các cơ liên sườn nằm ở phía trên, cũng như tạo chỗ bám cho một cơ vuông thắt lưng khỏe mạnh bên dưới. Khác người Neanderthal, cơ hoành không được gia cố vững vàng. Nhìn tổng thể, mẫu vật H. naledi này dường như nhỏ con hơn đại diện tới từ các loài Homo khác, song mẫu vật này có điển hình cho loài của nó hay không vẫn là một vấn đề chưa rõ.

Phần vai của H. naledi rất giống với các australopithecine; theo đó, xương bả vai nằm cao hơn trên lưng và cách đường giữa một đoạn khá xa, trong khi đó thì các xương đòn rất ngắn và ống tay có khả năng xoắn theo trục rất kém.

H. naledi là loài đi đứng bằng hai chân. Bàn chân của H. naledi rất giống người hiện địa và các Homo khác, theo đó đều thể hiện các thích ứng phù hợp cho năng lực đi đứng bằng hai chân và bước sải giống người. Xương gót có độ định hướng thấp giống như ở các loài vượn lớn không phải người. Hơn nữa, độ dốc của xương sên cũng thấp, có lẽ chỉ ra rằng bàn chân chúng sẽ trở nên cứng hơn trong giai đoạn tạm đứng trước lúc nhấc chân lên khỏi mặt đất khi đi bộ.

Bệnh lý học

Hàm dưới bên phải của cá thể trưởng thành U.W. 101-1142 bị thương tổn, dường như là bởi một khối u lành tính. Cá thể này lúc sống sẽ cảm thấy khó chịu ở vùng hàm bị sưng phù, song vị trí khối u gần cơ chân bướm trong (quanh khớp hàm) có lẽ đã cản trợ sự vận động cơ và làm biến đổi độ nâng của phía bên phải hàm.

Các bệnh lý về răng ở các mẫu vật H. naledi trong khoảng 1.6–2.8 hoặc 4.3–7.6 tháng tuổi nhiều khả năng phát sinh do các yếu tố stress thời tiết (nhiệt độ cực đoan vào mùa hè và mùa đông thường khiến cho nguồn thực phẩm khan hiếm). Nhiệt độ mùa đông cực tiểu trung bình ở khu vực này là vào khoảng và hoàn toàn có thể tụt xuống âm độ. Việc giữ ấm cho các cá thể H. naledi non sẽ thực sự là một thách thức lớn và thời tiết mùa đông sẽ làm tăng sự mẫn cảm đối với các dịch bệnh về đường hô hấp. Các yếu tố stress môi trường trùng khớp với các đợt cúm mùa hiện nay ở Nam Phi, cao điểm là vào mùa đông, và tần suất nhập viện nhi khoa do tiêu chảy thường đạt mức cao nhất vào cao điểm của mùa mưa trong hè.

Văn hóa

thumb|Phỏng dựng khuôn mặt của Homo naledi

Thức ăn

Mạt răng và vết mòn răng cho thấy H. naledi thường xuyên ăn các vật thể cứng nhỏ như bụi và đất, và kiểu mẫu bào mòn dạng chén phía sau răng có lẽ bắt nguồn từ sự va chạm của các hạt sạn nhỏ li ti lẫn trong các loại củ rễ mà họ tiêu thụ. Ngoài ra, khí hậu khô cằn có thể quấy trộn hạt lên đồ ăn, phủ lên chúng bụi cát. Họ có vẻ thường xuyên tiêu thụ các loại đồ ăn cứng và to như hạt đã được băm nhỏ trước khi cho vào mồm.

H. naledi chiếm hữu một ổ sinh thái khá độc đáo khi so với các hominin Nam Phi tiền thân. Giống như AustralopithecusParanthropus, răng của cả ba đều thích ứng cho việc tạo lực bạt ngang để nhai nghiền thực vật hoặc sợi thực vật. Răng của các Homo khác không có khả năng tạo lực hiệu quả như vậy có lẽ vì họ đã biết cách xử lý và nấu đồ ăn trước khi tiêu thụ.

Kỹ nghệ

H. naledi có khả năng chế tác các kỹ nghệ đặc trưng của thời đại đồ đá cũ (kỹ nghệ Acheul và có lẽ là cả kỹ nghệ Oldowan) hoặc đồ đá giữa vì bàn tay của họ đã tiến hóa các thích ứng cho việc cầm nắm.

Năm 2017, Dirks, Berger, và đồng nghiệp tái khẳng định rằng không hề có bằng chứng về dòng chảy xiết trong hang, và nhiều khả năng những cái xác đã được đặt vào trong một cách có chủ ý. Họ suy đoán rằng những loài Homo khác, tổ tiên con người chẳng hạn, đã đưa những cái xác này vào hang thay vì bởi chính đồng loài, song họ chưa loại bỏ hoàn toàn khả năng H. naledi biết táng tục. Họ đề xuất rằng việc đặt xác vào trong buồng là nhằm mục đích xua đuổi thú ăn xác khỏi những nơi quần cư hoặc đơn thuần là hệ quả của các hành vi bậc cao như đồng cảm và luyến tiếc.

Năm 2021, sau khi phân tích xương cốt của các cá thể chưa trưởng thành, Juliet Brophy và Berger cho rằng di cốt H. naledi có thể đã bị động chạm bởi một số loài người khác. Nếu đúng, Homo naledi sẽ là trường hợp chôn cất sớm nhất của hominid. Tuy vậy, nghiên cứu này hiện đang bị tranh cãi.

Thư viện ảnh

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Homo naledi_** là một loài người cổ xưa được phát hiện vào năm 2013 trong hang động Rising Star thuộc khu khảo cổ Cái nôi của loài người, Nam Phi, có niên đại về thời
thumb|Cảnh quan hoang dã vào [[Thế Canh Tân muộn ở Bắc Tây Ban Nha, bởi Mauricio Antón (trái sang phải: _Equus ferus_, _Mammuthus primigenius_, _Rangifer tarandus, Panthera leo spelaea, Coelodonta antiquitatis_)]] Kỷ Đệ tứ (từ
**Họ Người** (**Hominidae**) hay còn được biết đến là **vượn lớn** (**great ape**), là một họ linh trưởng.**** Họ này bao gồm 8 loài trong 4 chi: chi _Pongo_ (đười ươi Borneo, đười ươi Sumatra
**Cái nôi của loài người** hay **Cái nôi của nhân loại** là một biệt danh của một khu vực cổ sinh vật học nằm cách về phía tây bắc của Johannesburg, thuộc tỉnh Gauteng, Nam
**Hệ thống hang động Rising Star** (còn gọi là **hang Westminster** hoặc **Empire**) nằm trong dolomit Malmani, trong Bloubank sông thung lũng, khoảng 800 mét (0.50 dặm; 2.600 feet) về phía tây nam Swartkrans, một
thumb|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Dịch vụ dân sự tưởng nhớ các nạn nhân trong [[Các vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015|cuộc tấn công ở Paris vào tháng 11 năm
**Danh sách các loài sinh vật được mô tả chính thức năm 2015** xếp theo thời gian công bố trên các tạp chí khoa học. ## Tháng 1 năm 2015 # Anthocephalum decrisantisorum chi Anthocephalum,
**Lee Rogers Berger** (sinh 22 tháng 12 năm 1965) là một nhà cổ nhân loại học, nhà nhân chủng học và nhà nhân chủng học được biết tới vì phát hiện _Australopithecus sediba_, ttrong một