✨Marcianus

Marcianus

Marcianus (; 392 – 457) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 450 đến 457. Triều đại của ông đã đánh dấu sự phục hồi của Đế quốc Đông La Mã từ trọng trách bảo vệ triều đình khỏi những mối đe dọa bên ngoài đến việc cải cách kinh tế và tài chính. Mặc khác, chính sách biệt lập của Marcianus đã bỏ rơi Đế quốc Tây La Mã khiến họ không đủ sức ngăn chặn các cuộc tấn công của người rợ, đã được thể hiện qua các chiến dịch tàn phá nước Ý của Attila và vụ cướp phá thành Rome của người Vandal năm 455. Về sau ông được Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương phong thánh.

Tiểu sử

Nắm quyền

nhỏ|phải|Tranh minh họa Hoàng đế Marcianus và Leo I từ thời [[Trung cổ.]] Marcianus sinh vào năm 392 ở Illyricum hoặc Thracia. Vốn là con trai của một người lính, phần lớn thuở ban đầu ông chỉ là một người lính vô danh, thành viên của một đơn vị quân đội đóng ở Philippopolis. Marcianus cùng đơn vị của ông đã được triều đình Đông La Mã điều động tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại quân Ba Tư nhà Sassanid (có thể là chiến tranh La Mã-Sassanid năm 421-422), nhưng trong lúc hành quân sang phía Đông thì đột nhiên ông ngã bệnh ở Lycia; vào lúc này cấp bậc của ông có thể là tribunus và chỉ huy đơn vị của mình.

Sau khi khỏi bệnh, ông được triều đình triệu về Constantinopolis giữ chức domesticus phụng sự dưới quyền các tướng Ardaburius và Aspar trong mười lăm năm. Từ năm 431 đến 434, trong khi đang chiến đấu ở châu Phi dưới trướng Aspar, Marcianus bị người Vandal bắt giữ làm tù binh, theo một truyền thuyết sau này cho biết ông được quân sĩ mang ra diện kiến trước mặt vua Geiseric (428-477), mà ông biết được nhờ vào một điềm báo trong mơ rằng về sau Marcianus sẽ làm hoàng đế và rồi ra lệnh thả ông ngay lập tức với điều kiện phải lập lời thề trước chư thần sẽ không bao giờ khởi binh chống lại người Vandal.

Dựa vào ảnh hưởng của các tướng, ông được phong làm đội trưởng đội vệ binh rồi về sau thăng lên đến chức nghị viên. Sau khi hoàng đế Thedosius II mất vào năm 450, ông được người vợ mới cưới Pulcheria và cũng là chị của hoàng đế tiền nhiệm chọn lên ngôi hoàng đế trị vì một Đế quốc La Mã ngày càng suy yếu và kiệt quệ bởi những cuộc tàn phá của người Hun.

Trị vì

nhỏ|phải|[[Đế quốc Đông La Mã vào năm 450 dưới thời Marcianus.]] Sau khi trở thành Hoàng đế, Marcianus đã từ chối các khoản cống nạp nhục nhã cho Attila Rợ Hung (434-453), vốn đã quen với việc nhận cống nạp từ thời Theodosius II để tránh các cuộc tấn công vào Đế quốc Đông La Mã. Nhận thấy sẽ không bao giờ chiếm được thủ đô Constantinopolis, Attila đã chuyển sang uy hiếp lãnh thổ của Đế quốc Tây La Mã và tiến hành các chiến dịch nổi tiếng của ông ở Gaul năm 451 và Ý năm 452 trong khi để mặc Marcianus hùng cứ một phương.

Nhờ vậy mà Marcianus đã có thể tiến hành cải cách tài chính, kiểm tra việc chi tiêu lãng phí và phục hồi số dân ở các tỉnh bị tàn phá. Ông còn điều quân đẩy lùi các cuộc tấn công ở Syria và Ai Cập năm 452 và đàn áp các vụ nổi loạn trên biên giới Armenia vào năm 456. Sự kiện đáng chú ý khác trong thời ông trị vì là việc triệp tập Công đồng Chalcedon năm 451 với mục đích cố gắng làm trung gian giữa các phe phái Thần học.

Marcianus thường phớt lờ những vấn đề của Đế quốc Tây La Mã, để lại một nửa lung lay ở phía Tây của Đế quốc mặc cho số phận định đoạt. Ông thậm chí chẳng làm gì để ra tay cứu giúp triều đình phía Tây trong các chiến dịch của Attila và sống đúng theo lời hứa năm xưa là làm ngơ trước các vụ tàn phá của Geiseric ngay cả khi người Vandal cướp phá thành Roma vào năm 455. Tuy nhiên đã có những tranh luận gần đây cho rằng Marcianus đã tích cực tham gia nhiều hơn trong việc hỗ trợ Đế quốc Tây La Mã hơn những sử gia trước đó đã từng tin vào việc những dấu tay của Marcianus có thể được phân biệt rõ trong các sự kiện dẫn đến, bao gồm cả cái chết của Attila.

Một thời gian ngắn trước khi Attila mất đột ngột vào năm 453, giữa đôi bên lại xảy ra xung đột lần nữa. Tuy nhiên, vị vua người Hun dũng mãnh này đã chết trước khi chiến tranh nổ ra. Trong một giấc mơ, Marcianus tuyên bố ông đã nhìn thấy cây cung của Attila bị hỏng ngay trước mặt ông, và một vài ngày sau đó, ông nhận được tin rằng kẻ thù lớn của ông đã qua đời.

Chẳng bao lâu thì Marcianus lâm trọng bệnh và mất vào ngày 27 tháng 1 năm 457, một số học giả cho rằng rất có thể ông đã mắc phải bệnh hoại tử trong một chuyến hành hương dài ngày. Thi thể của ông được chôn cất tại Nhà thờ các Thánh Tông Đồ ở Constantinople cùng với Pulcheria.

Mặc dù thời gian trị vì ngắn ngủi và việc bỏ rơi Đế quốc Tây La Mã cho các rợ tàn phá thì Marcianus vẫn được xem là một trong những Hoàng đế Đông La Mã giỏi nhất. Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương đã phong thánh cho ông và Pulcheria với ngày lễ của họ được tổ chức vào ngày 17 tháng 2 hằng năm.

Hôn nhân

Marcia Euphemia là người con gái duy nhất được biết đến của Marcianus, bà được cha gả cho Anthemius, về sau là Hoàng đế Tây La Mã. Riêng mẹ của bà thì hiện vẫn chưa rõ danh tính.

Pulcheria là người vợ thứ hai của Marcianus. Pulcheria đã thề nguyện sẽ theo Chúa suốt đời với tư cách của một trinh nữ ngoan đạo. Cuộc hôn nhân thứ hai chỉ đơn thuần là một liên minh chính trị nhằm đưa Marcianus làm thành viên kế thừa ngôi vị của Nhà Theodosius thông qua hôn nhân. Do vậy cuộc hôn nhân của Marcianus với Pulcheria cũng không được vẹn toàn vì nó vốn mang màu sắc chính trị, do đó Euphemia chưa bao giờ có thêm một người anh em nào khác.

Ảnh hưởng văn hóa

Vai Marcianus do ngôi sao điện ảnh Hollywood Jeff Chandler đóng trong phim Sign of the Pagan (1954).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Marcianus** (; 392 – 457) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 450 đến 457. Triều đại của ông đã đánh dấu sự phục hồi của Đế quốc Đông La Mã từ trọng trách
**_Thamnophis marcianus_** là một loài rắn trong họ Rắn nước. Loài này được Baird & Girard mô tả khoa học đầu tiên năm 1853. ## Hình ảnh Tập tin:Albino Checkered Garter Snake.jpg
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
nhỏ|Một chi tiết từ đĩa bạc _Missorium của Aspar_, khắc họa viên thống chế _magister militum_ đầy quyền uy **Aspar** và ngươi con trưởng [[Ardabur (khoảng năm 434).]] **Flavius Ardabur Aspar** (khoảng 400 – 471)
thumb|Mặt tiền Mộ Đức Trinh nữ Maria ở thế kỷ thứ 12 **Nhà thờ Mộ Đức Trinh nữ Maria**, cũng gọi là **Mộ Đức Trinh nữ Maria**, là một nhà thờ Kitô giáo tọa lạc
thumb|Công đồng Calcêđônia **Công Đồng Calcêđônia** đã đưa ra một định nghĩa quan trọng có tính cách quyết định cho việc trình bày đức tin về tín điều Nhập thể của Chúa Giêsu. Công đồng
**Aelia Pulcheria** (sinh năm 398 hoặc 399 – mất năm 453) là con gái của Hoàng đế Đông La Mã Arcadius và Hoàng hậu Aelia Eudoxia. Bà là người con thứ hai của Arcadius và
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
Ngày **27 tháng 1** là ngày thứ 27 trong lịch Gregory. Còn 338 ngày trong năm (339 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *98 – Traianus kế vị cha nuôi Nerva làm hoàng đế
**Rồng** (chữ Nôm: 𧍰, 𧏵, hay 蠬) hay **Long** (chữ Hán: 龍) là sinh vật thần thoại khổng lồ sở hữu phép thuật xuất hiện trong văn hóa dân gian ở nhiều nơi trên thế
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Gallienus** (; 218 – 268) là Hoàng đế La Mã với cha mình Valerianus từ năm 253 đến 260 và một mình từ năm 260 đến 268. Ông đã cai trị trong cuộc khủng hoảng
**Marcus Aurelius Severus Alexander Augustus** thường được gọi là **Alexander Severus** hay **Severus Alexander** (1 tháng 10 năm 208 - 21 hoặc 22 tháng 3 năm 235) là Hoàng đế La Mã từ năm 222
**Theodosius II** (tiếng Latin: _Flavius Theodosius Junior Augustus_; 401 – 450) thường gọi là **Theodosius Trẻ** hoặc **Theodosius Nhà thư pháp**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết
**Elagabalus** (_Marcus Aurelius Antoninus Augustus_, khoảng 203 – 11 tháng 3 năm 222), còn gọi là **Heliogabalus**, là Hoàng đế La Mã gốc Syria từ năm 218 đến 222. Là một thành viên của nhà
**Julius Patricius** (Latin: _Iulius Patricius_ or _Patriciolus_; ; _floruit_ 459 – 471) là con trai của vị tướng đầy quyền uy Aspar đã chi phối triều chính của Đế quốc Đông La Mã trong gần
**Valamir** (khoảng 420 – 465) là một vị vua Ostrogoth tại vùng đất cổ xưa xứ Pannonia từ năm 447 cho đến khi ông qua đời. Dưới thời trị vì của mình, Valamir đã chiến
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ