✨Elagabalus

Elagabalus

Elagabalus (Marcus Aurelius Antoninus Augustus, khoảng 203 – 11 tháng 3 năm 222), còn gọi là Heliogabalus, là Hoàng đế La Mã gốc Syria từ năm 218 đến 222. Là một thành viên của nhà Severus, ông vốn là con thứ hai của Julia Soaemias và Sextus Varius Marcellus. Từ thuở thiếu thời ông từng giữ chức tư tế vốn là cha truyền con nối thờ phụng thần Elagabal (trong tiếng Latinh là Elagabalus) ở quê mẹ tại Emesa. Vốn một công dân ẩn dật, ban đầu ông được gia đình đặt tên là Sextus Varius Avitus Bassianus. Sau khi trở thành hoàng đế thì lấy tên mới là Marcus Aurelius Antoninus Augustus. Cái tên Elagabalus chỉ được gọi sau khi hoàng đế qua đời.

Năm 217, Hoàng đế Caracalla bị ám sát và được thay thế bởi viên Pháp quan thái thú Marcus Opellius Macrinus. Người cô bên ngoại của Caracalla là Julia Maesa đã thành công trong việc phát động Binh đoàn Lê dương thứ ba nổi loạn nhằm ủng hộ cho đứa cháu trai trưởng của bà (và là em họ của Caracalla), Elagabalus lên ngôi hoàng đế ở tư dinh của mình. Macrinus đã bị quân của Elagabalus đánh bại trong trận Antioch vào ngày 8 tháng 6 năm 218. Elagabalus lúc đó chỉ mới mười bốn tuổi và đã trở thành hoàng đế, bắt đầu một triều đại được biết đến chủ yếu là nhờ các vụ bê bối tình dục và tranh cãi tôn giáo.

Các nhà sử học sau này đều đưa ra giả thuyết rằng Elagabalus đã cho thấy sự coi thường truyền thống tôn giáo La Mã và những điều cấm kỵ tình dục của ông. Ông đã thay thế người đứng đầu truyền thống của đền Pantheon là thần Jupiter với vị thần Elagabal mà ông là giáo chủ. Elagabalus còn buộc các thành viên cao cấp của chính quyền La Mã phải tham gia vào nghi lễ tôn giáo kỷ niệm vị thần này do đích thân mình chủ trì. Elagabalus đã kết hôn tới năm lần, thiên vị quá nhiều cho các triều thần cùng giới mà thiên hạ đồn là một trong những tình nhân của ông, sử dụng nguyên mẫu cái lót nệm vui nhộn tại các bữa tiệc tối, có những tư liệu còn cho rằng hoàng đế đã tự mình bán dâm trong hoàng cung. Lối sống đồi trụy xa hoa của ông ngày càng xa lánh Cấm vệ quân Praetoriani, Viện Nguyên lão và nhân dân La Mã. Giữa sự phản đối ngày càng tăng thì Elagabalus đã bị ám sát lúc mới 18 tuổi và được thay thế bằng người anh em họ của ông Alexander Severus vào ngày 11 tháng 3 năm 222, trong một âm mưu thay đổi ngôi vị của bà ngoại mình Julia Maesa và được thực hiện bởi các thành viên bất mãn của Đội Cận vệ Praetoriani.

Elagabalus khá nổi tiếng đương thời vì tính rất lập dị, suy đồi và cuồng tín. Truyền thống này đã kéo dài, và trong số nhà văn đầu thời hiện đại thì ông bị mắc tiếng xấu là một trong những vị hoàng đế tồi tệ nhất. Sử gia người Anh Edward Gibbon, trong một ví dụ đã viết rằng Elagabalus "bỏ mặc bản thân mình vào những lạc thú thô tục và ham mê vô độ". Theo B.G. Niebuhr, "Cái tên Elagabalus là một thương hiệu trong lịch sử đứng trên tất cả những người khác" bởi vì "cuộc đời ghê tởm khôn tả" của ông.

Gia thế

Elagabalus sinh vào khoảng năm 203, là con của Sextus Varius Marcellus và Julia Soaemias Bassiana. Cha ông lúc đầu là một thành viên thuộc tầng lớp kị sĩ (Equestrian), nhưng về sau thăng quan tiến chức lên tới cấp bậc nguyên lão. Bà ngoại Julia Maesa của ông là góa phụ của chấp chính quan Gaius Julius Avitus Alexianus, em gái của Julia Domna và là em dâu của Hoàng đế Septimius Severus. Ông còn có một người anh trai không rõ tên tuổi. Mẹ ông Julia Soaemias là em họ của Hoàng đế La Mã Caracalla. Những người họ hàng khác bao gồm người dì Julia Avita Mamaea và ông chú Marcus Julius Gessius Marcianus cùng đứa con trai trong bầy con của họ là Alexander Severus. Gia tộc của Elagabalus đã đời đời nối nhau giữ chức tư tế thờ thần mặt trời Elagabal mà Elagabalus là giáo chủ tại Emesa (nay thuộc Homs) ở Syria. Sự sùng bái vị thần lan ra các vùng khác của Đế chế La Mã vào thế kỷ thứ 2; một sự hiến dâng đã được tìm thấy ở tận Woerden (Hà Lan). Vị thần này sau đó đã được đưa vào và đồng hóa với thần mặt trời La Mã được gọi là Sol Indiges vào thời cộng hòa và Sol Invictus trong suốt thế kỷ thứ 2 và 3. Trong tiếng Hy Lạp tên của thần Mặt Trời là Helios, do đó "Heliogabalus" cũng là một biến thể của "Elagabalus".

Nắm quyền

Khi Hoàng đế Macrinus lên nắm quyền, để tránh các mối đe dọa từ gia đình của người tiền nhiệm bị ám sát Caracalla ảnh hưởng tới lại triều đại của ông, bằng cách trục xuất cả nhà gồm Julia Maesa, hai cô con gái, và cháu đích tôn của bà là Elagabalus tới điền trang của họ tại Emesa ở Syria. Để tăng cường tính hợp pháp của mình thông qua công tác tuyên truyền hơn nữa, Elagabalus đã lấy tên Caracalla là Marcus Aurelius Antoninus. Đáp lại Macrinus đã phái viên Pháp quan thái thú của ông là Ulpius Julianus tới đó với một đạo quân đông đảo mà ông cho là đủ mạnh để đè bẹp cuộc bạo loạn. Tuy nhiên, lực lượng này đã sớm theo về phe của Elagabalus khi xảy ra chiến sự bằng cách giết chết viên chỉ huy và các sĩ quan của họ rồi gửi đầu của Julianus về triều dâng công.

Macrinus bèn vội gửi thư cho Viện Nguyên lão tố giác Elagabalus là một Antoninus Giả và tuyên bố rằng ông đã mất trí. Cả quan chấp chính tối cao và các thành viên cao cấp khác trong chính phủ ở Roma đều lên án Elagabalus. Rồi sau đó Viện Nguyên lão đã quyết định tuyên chiến với cả Elagabalus và Julia Maesa. Lực lượng của hai cha con Macrinus dần suy yếu bởi sự đào ngũ của Binh đoàn Lê dương thứ hai do các khoản hối lộ và những lời hứa hẹn được Julia Maesa lan truyền, đã sớm bị quân đội của Gannys chỉ huy đánh bại vào ngày 8 tháng 6 năm 218 trong trận Antioch. vốn đã vi phạm truyền thống nhưng dù sao đi nữa đó cũng là một thực tế phổ biến trong số các hoàng đế thế kỷ 3. Thư hòa giải đã được gửi đi đến Roma mở rộng lệnh ân xá cho Viện Nguyên lão và công nhận pháp luật, trong khi cũng lên án chính quyền của hai cha con Macrinus. Các nguyên lão nghị viên đã đáp lại bằng cách thừa nhận Elagabalus là hoàng đế hợp pháp và chấp nhận lời tuyên bố mình là con trai của Caracalla. Caracalla và Julia Domna đều được Viện Nguyên lão phong thần, cả Julia Maesa và Julia Soaemias đều được phong đến thứ bậc Augustae, hồi ức về triều đại của Macrinus và Diadumenianus đã bị Viện Nguyên lão kết án.

Triều đại (218-222)

nhỏ|phải|Một đồng tiền xu [[denarius do Elagabalus đặt làm, mang chân dung của ông]] Elagabalus và đoàn tùy tùng của ông đã trải qua mùa đông năm 218 ở Bithynia tại Nicomedia, Để giúp người La Mã điều chỉnh ý tưởng có một thầy tế phương Đông làm hoàng đế, Julia Maesa đã gửi một bức tranh của Elagabalus trong màu áo thầy tế đến Roma và treo trên một bức tượng của nữ thần Victoria trong Nhà Nghị Viện. Trong khi Elagabalus vẫn còn trên đường đến Roma, đạo quân Lê dương thứ tư đã tiến hành nổi dậy trong một thời gian ngắn do sự xúi giục của Gellius Maximus và quân đoàn thứ ba, vốn chịu trách nhiệm về việc đưa Elagabalus lên ngôi hoàng đế, dưới sự chỉ huy của nguyên lão nghị viên Verus. Cuộc nổi loạn đã nhanh chóng được dập tắt và binh đoàn thứ ba bị giải tán.

Khi đoàn tùy tùng tới Roma vào mùa thu năm 219, Comazon và các đồng minh khác của Julia Maesa và Elagabalus được trao những vị trí đầy quyền lực và hấp dẫn, trước sự phẫn nộ của nhiều nguyên lão nghị viên vốn không coi họ xứng đáng với đặc quyền này. Sau khi hết nhiệm kỳ Pháp quan thái thú của mình, Comazon tiếp tục giữ chức thị trưởng Roma tới ba lần và quan chấp chính hai lần.

Elagabalus còn cố gắng để cho người mà ông coi là tình nhân của mình, gã đánh xe ngựa Hierocles được phong làm Caesar bất chấp sự phản đối của Viện Nguyên lão, trong khi một người bị coi là tình nhân khác của ông, vận động viên Aurelius Zoticus, cũng được bổ nhiệm vào vị trí phi hành chính nhưng rất có thế lực trong cung là Cubicularius (Tổng quản). Lời đề nghị của ông về ân xá cho tầng lớp thượng lưu La Mã phần lớn đều được hoan nghênh, cho dù luật gia Ulpianus vẫn bị đi đày.

Mối quan hệ giữa Julia Maesa, Julia Soaemias và Elagabalus vẫn êm đềm lúc đầu. Mẹ và bà ngoại của ông đã trở thành những người phụ nữ đầu tiên được cho phép gia nhập Viện Nguyên lão, cả hai đều nhận được danh hiệu nguyên lão nghị viên: Soaemias cho lập chức danh Clarissima và Maesa thì không chính thống hơn Mater Castrorum et Senatus ("Người mẹ của quân doanh và của Viện Nguyên lão"). Trong khi Julia Maesa cố gắng khẳng định chính mình như là người nắm quyền đằng sau ngai vàng và do đó trở thành người phụ nữ quyền lực nhất trên thế giới, Elagabalus cũng chứng minh tính độc lập cao khi quyết định tự mình sẽ trị vì và càng về sau thì ông chẳng còn để mẹ và bà mình chi phối nữa.

Tranh cãi tôn giáo

Một đồng tiền xu [[aureus miêu tả Elagabalus. Mặt trái đọc là Sanct Deo Soli Elagabal (Kính Gửi Vị Thánh Thần Mặt Trời Elagabal), và miêu tả một cỗ xe tứ mã, một cỗ xe ngựa chở hòn đá linh thiêng của đền Emesa.]] Kể từ thời Septimius Severus, sự thờ phụng Mặt Trời đã gia tăng trên toàn đế chế. Elagabalus thấy đây là một cơ hội để đưa Elagabal làm vị thần đứng đầu của đền Pantheon. Vị thần được đổi tên thành Deus Sol Invictus, có nghĩa là vị Thần Mặt Trời bất khả chiến bại và được tôn vinh trên cả thần Jupiter.

Là một dấu hiệu của sự tôn trọng tôn giáo La Mã, vậy mà Elagabalus lại đưa cả Astarte, Minerva, Urania, hoặc một số sự kết hợp cả ba người để làm vợ cho Elagabal. Trước khi xây dựng một ngôi đền nhằm dâng lên cho Elagabal, Elagabalus đã đặt viên thiên thạch của Elagabal sát bên ngôi vị của Jupiter tại đền thờ Jupiter Optimus Maximus.

Ông còn gây bất mãn nhiều hơn nữa khi tự mình kết hôn với một Trinh nữ Vesta Aquilia Severa, tuyên bố trước thần dân của đế chế cuộc hôn nhân này sẽ sinh ra một "đứa con thần thánh". Đây là một sự vi phạm trắng trợn luật lệ và phong tục truyền thống La Mã, theo đó nếu bất kỳ Trinh nữ Vesta nào bị phát hiện đã tham gia vào quan hệ tình dục sẽ bị chôn sống.

Một ngôi đền xa hoa lộng lẫy gọi là Elagabalium được xây dựng trên mặt phía đông của đồi Palatine cho nhà Elagabal, người được đại diện bởi một thiên thạch hình nón đen từ Emesa.

Tranh cãi giới tính

nhỏ|phải|Đồng tiền xu denarius của La Mã miêu tả [[Aquilia Severa, người vợ thứ hai của Elagabalus. Cuộc hôn nhân này đã khiến dân chúng phẫn nộ vì Aquilia là một Trinh nữ thờ thần Vesta, đã tuyên thệ theo luật La Mã là phải độc thân trong 30 năm.]] Khuynh hướng tình dục và bản chất giới tính của Elagabalus đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh cãi kịch liệt. Elagabalus từng kết hôn và ly dị với năm phụ nữ, Cassius Dio kể lại rằng Elagabalus đã vẽ mi mắt, nhổ lông tóc và đội tóc giả cho Zoticus trước khi bán dâm chính mình cho các quán rượu, nhà thổ và ngay cả trong cung đình:

Herodianus nhận xét rằng Elagabalus đã tăng cường vẻ đẹp tự nhiên của mình bằng cách sử dụng mỹ phẩm thường xuyên.

Suy yếu

thumbnail|Tượng bán thân của [[Julia Cornelia Paula, người vợ đầu tiên của Elagabalus.]] Đến năm 221, tính lập dị của Elagabalus, đặc biệt là mối quan hệ của ông với Hierocles,

Sau thất bại từ những nỗ lực khác nhau nhằm hạ bệ Alexander, Elagabalus đã hạ lệnh thu hồi danh hiệu của người em họ, hủy bỏ chức quan chấp chính tối cao và tung tin rằng Alexander sắp lìa đời, với ý định xem thử phản ứng của Cấm vệ quân. Phụ nữ lại bị cấm không được tham dự các cuộc họp của Viện Nguyên lão. Việc thực hiện damnatio memoriae bị xóa khỏi các bản tài liệu lưu trữ một nhân vật bị thất sủng trước đây trong phần ghi chú đã được áp dụng một cách hệ thống trong trường hợp của Elagabalus.

Nguồn sử liệu

Historia Augusta

Huy chương của Elagabalus, [[Bảo tàng Louvre.]] Nguồn gốc của rất nhiều câu chuyện về sự suy đồi của Elagabalus là từ bộ sử Historia Augusta, trong đó có những lời tuyên bố gây tranh cãi trong giới sử học. Historia Augusta rất có thể được viết vào cuối thế kỷ thứ 4 dưới thời trị vì của Hoàng đế Theodosius I. Cuộc đời của Elagabalus như được mô tả trong Historia Augusta có giá trị lịch sử không chắc chắn. Các tiết đoạn từ 13 đến 17 liên quan đến sự sụp đổ của Elagabalus, ít nhiều gây ra sự tranh cãi giữa các nhà sử học.

Cassius Dio

Các nguồn tài liệu thường được cho là đáng tin cậy hơn Historia Augusta bao gồm tác phẩm của các nhà sử học đương thời như Cassius Dio và Herodianus. Cassius Dio sống từ nửa sau thế kỷ thứ 2 cho tới năm 235. Sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp quý tộc, ông đã dành phần lớn đời mình làm quan ra sức phò tá triều đình. Hơn nữa ông còn là một nguyên lão dưới thời Hoàng đế Commodus và thống đốc xứ Smyrna sau cái chết của Septimius Severus. Về sau ông được bổ nhiệm làm chấp chính quan vào năm 205 và kiêm nhiệm chức thống đốc tỉnh châu Phi và Pannonia.

Alexander Severus cực kỳ quý mến Dio nên đã phong cho ông làm chấp chính quan một lần nữa. Cuốn Lịch sử La Mã của Cassius Dio trải dài suốt gần một thế kỷ, từ sự xuất hiện của Aeneas ở Ý cho đến năm 229. Vì sống cùng thời với Elagabalus nên tác phẩm của Cassius Dio về triều đại của ông thường được coi là đáng tin cậy hơn so với bộ sử Historia Augusta dù do chính ông thú nhận tự viết. nhưng chủ yếu là để làm một phần của ông trong việc duy trì bản damnatio memoriae được thi hành sau cái chết của hoàng đế và kết hợp nó với một vị vua chuyên quyền nổi tiếng với đời sống xa hoa trụy lạc.

Herodianus

Một nhà sử học khác sống cùng thời với Elagabalus là Herodianus, vốn là một viên quan nhỏ La Mã sống từ năm 170 đến 240. Trong bộ Lịch sử Đế quốc La Mã từ thời Marcus Aurelius của ông, thường được viết tắt là Lịch sử La Mã, được xem là nguồn sử liệu chứng kiến về triều đại của Commodus cho đến đầu thời Gordianus III. Tác phẩm của ông phần lớn là trùng lặp với bộ Lịch sử La Mã của Dio, nhưng cả hai bộ sử xem chừng độc lập phù hợp với nhau.

Mặc dù tác phẩm của Herodianus không được xem là đáng tin cậy như Cassius Dio, vì ông không có tham vọng văn chương và học thuật nên khiến ông ít thành kiến hơn các sử gia nguyên lão khác. Herodianus được coi là nguồn sử liệu quan trọng nhất về các cuộc cải cách tôn giáo diễn ra dưới thời Elagabalus, đã được xác nhận từ việc nghiên cứu tiền tệ và các bằng chứng khảo cổ học.

Edward Gibbon và các sử gia sau khác

Đối với độc giả thời hiện đại, bộ Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã của sử gia người Anh Edward Gibbon (1737–1794) tiếp tục củng cố tiếng xấu của Elagabalus. Gibbon không chỉ chấp nhận và bày tỏ sự phẫn nộ trước những lời cáo buộc của các nhà sử học cổ đại, mà có thể đã thêm một số chi tiết của riêng mình, ông là nhà sử học đầu tiên được biết rõ rằng Gannys là một thái giám như trong một ví dụ. được Gibbon viết sau đây:

Bức Heliogabalus high priest of the Sun, [[Simeon Solomon, 1866. Elagabalus giữ chức thầy tế cấp cao cha truyền con nối của đạo thờ thần Mặt Trời ở Emesa, Elgabal từ lúc nhỏ cho tới năm mười bốn tuổi.]]

Một số nhà sử học gần đây đã tranh cãi nhằm xây dựng hình ảnh có phần thiện chí hơn về cuộc đời và triều đại của Elagabalus. Đơn cử như Martijn Icks trong cuốn Images of Elagabalus (2008, được tái bản là The Crimes of Elagabalus vào năm 2012) nghi ngờ độ tin cậy của các tài liệu cổ xưa và cho rằng đó là do chính sách tôn giáo không chính thống của hoàng đế làm xa lánh các tầng lớp quyền lực của Roma, đến mức bà ngoại của ông đã thấy cần phải loại bỏ ông và thay thế bằng một người em họ. Leonardo de Arrizabalaga y Prado trong The Emperor Elagabalus: Fact of Fiction? (2008), còn chỉ trích các nhà sử học cổ đại và phỏng đoán rằng có thể là tôn giáo hay giới tính cùng đóng một vai trò trong sự sụp đổ của vị hoàng đế trẻ tuổi, người chỉ đơn giản là kẻ thất bại trong một cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ hoàng gia của đế chế; sự trung thành của đội Cấm vệ quân Praetoriani đã bị mua chuộc và Julia Maesa có đủ tài lực để lôi kéo và vận động người cháu của bà. Theo phiên bản này, một lần Elagabalus, mẹ ông và những tùy tùng bên cạnh hoàng đế đều bị sát hại, một cuộc chiến tuyên truyền quy mô lớn nhằm bôi nhọ những hồi ức về ông dẫn đến một bức tranh biếm họa đồi trụy đã kéo dài đến hiện tại, lặp đi lặp lại và thường các sử gia về sau thêm thắt vào nhằm thể hiện những định kiến riêng của họ chống lại sự ẻo lả và những thói xấu khác mà Elagabalus là hình ảnh thu nhỏ của nó.

Di sản

nhỏ|widthpx|Elagabalus trên một bức tranh tường ở lâu đài Forchtenstein Do truyền thuyết từ xưa về ông, Elagabalus đã trở thành thứ gì đó kiểu như một hình tượng trong phong trào Suy đồi ở châu Âu cuối thế kỷ 19.

Văn học

À rebours của Joris-Karl Huysmans (1884), một trong những tác phẩm tiêu biểu của phong trào Suy đồi, những đoạn mô tả trong chương 2 về sự khéo léo đằng sau một bữa yến tiệc được dàn dựng bởi nhân vật chính Des Esseintes, chỉ bao gồm thực phẩm toàn màu đen, được dùng như một vật kỷ niệm cho sự tráng dương bị mất của mình. Những tình tiết trong chương này một phần lấy cảm hứng từ những bữa tiệc đơn sắc rất giả tạo mà người ta cho là do chính Elagabalus nghĩ ra (Historia Augusta, Tiểu sử Elagabalus, chương 18) L'Agonie (1888), cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Pháp Jean Lombard, có Elagabulus là nhân vật chính. Năm 1903, Georges Duviquet cho xuất bản tác phẩm được coi là một tiểu sử trung thành của hoàng đế: Héliogabale: Raconté par les historians Grecs et Latins, [avec] dix-huit gravures d'après les monuments original Cả hai tác phẩm trước đây đều truyền cảm hứng cho nhà văn người Hà Lan Louis Couperus để ông viết nên cuốn tiểu thuyết De Berg van Licht (Núi sáng) (1905), trong đó giới thiệu Elagabalus với một cái nhìn thông cảm Algabal (1892-1919), tuyển tập thi ca của nhà thơ Đức Stefan George The Sun God (1904), cuốn tiểu thuyết của nhà văn người Anh Arthur Westcott The Amazing Emperor Heliogabalus (1911), cuốn tiểu sử của Oxford don John Stuart Hay Héliogabale ou l'Anarchiste couronné (Heliogabalus hoặc nhà vô chính phủ đăng quang) (1934) của Antonin Artaud, kết hợp gồm tiểu luận, tiểu sử và tiểu thuyết Family Favourites (1960), cuốn tiểu thuyết của nhà văn người Anh gốc Argentina Alfred Duggan trong đó Heliogabalus được quan sát thông qua góc nhìn của một vệ sĩ trung thành người Gaul và được mô tả như một nhà thẩm mỹ quyến rũ và hòa nhã, cá nhân đáng yêu nhưng thiếu các kỹ năng chính trị. Child of the Sun (1966), cuốn tiểu thuyết của Lance Horner và Kyle Onstott, được biết đến là nhờ lấy cảm hứng từ bộ phim Mandingo Super-Eliogabalo (1969), cuốn tiểu thuyết của nhà văn Ý Alberto Arbasino Boy Caesar (2004), cuốn tiểu thuyết của nhà văn người Anh Jeremy Reed *Roman Dusk (2008), cuốn tiểu thuyết trong loạt truyện về Bá tước ma cà rồng Saint-Germain của nhà văn Mỹ Chelsea Quinn Yarbro

Kịch nghệ

Zygmunt Krasiński. Irydion (1836), trong đó Elagabalus được miêu tả như một tên bạo chúa tàn bạo Mencken, H.L. và Nathan, George Jean. [http://www.archive.org/details/heliogabalusabu00nathgoog Heliogabalus A Buffoonery in Three Acts.]. New York: Alfred A. Knopf, 1920 de Escobar Fagundes, C.H. Heliogabalo: O Sol é a Pátria. Ed. Devir. Rio de Janeiro, 1980 Gilbert, S. Heliogabalus: A Love Story. Toronto, Cabaret Theatre Company, 2002 Ferreyra, Shawn. [https://archive.today/20130626190738/playsbyshawnferreyra.tumblr.com/post/714847074/elagabalus-emperor-of-rome Elagabalus, Emperor of Rome], 2008 Arelis. [http://ebookbrowsee.net/heliogabalus-pdf-d446994381 Heliogabalus] (2008)

Hội họa

Bức [[Những đóa hồng của Heliogabalus, Lawrence Alma-Tadema, 1888.]] Heliogabalus, High Priest of the Sun (1866) của họa sĩ trường phái suy đồi người Anh Simeon Solomon Một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất có tầm quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông chính là bức tranh bất hủ thế kỷ 19 Những đóa hồng của Heliogabalus (1888), của viện sĩ người Hà Lan gốc Anh là Ngài Lawrence Alma-Tadema. Nó khắc họa những vị khách tại một trong những bữa tiệc xa hoa của Elagabalus được phủ dưới một đống "hoa tím và những loài hoa khác" rơi từ trên cao xuống. _[http://www.couperusmuseum.org/varian/14_papers.html Lui] _ (1906), tranh của Gustav-Adolf Mossa Heliogabalus (1974), tranh của Anselm Kiefer *[http://www.artribune.com/2012/02/kiefer-a-bermondsey-prima-personale-alla-nuova-white-cube/anselm-kiefer-antonin-artaud-heliogabalus-2010-11-a4-1// Antonin Artaud Heliogabalus] (2010–11), tranh của Anselm Kiefer

Âm nhạc

Eliogabalo, một vở opera của nhà soạn nhạc Baroque Venetian Francesco Cavalli (1667) Heliogabale, một vở opera của nhà soạn nhạc Pháp Déodat de Severac (1910) Heliogabalus Imperator (Hoàng đế Heliogabalus), một tác phẩm hợp tấu của nhà soạn nhạc người Đức Hans Werner Henze (1972) Six Litanies for Heliogabalus, nhạc phẩm của nhà soạn nhạc và nghệ sĩ kèn saxophone John Zorn (2007) *Eliogabalus là album chính thức thứ hai của ban nhạc rock Ý/Slovenia Devil Doll, phát hành ngày 1 tháng 5 năm 1990.

Ca vũ

*Héliogabale, một vở múa đương đại biên đạo bởi Maurice Béjart

Điện ảnh

Héliogabale, một bộ phim câm năm 1909 của đạo diễn người Pháp André Calmettes [http://www.youtube.com/watch?v=UPhT-Q9bCCw Héliogabale, ou L'orgie romaine], một đoạn phim câm ngắn năm 1911 của đạo diễn người Pháp Louis Feuillade

Từ vựng

*Từ heliogábalo trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "một người bị choáng ngợp bởi ham mê ăn uống".

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Elagabalus** (_Marcus Aurelius Antoninus Augustus_, khoảng 203 – 11 tháng 3 năm 222), còn gọi là **Heliogabalus**, là Hoàng đế La Mã gốc Syria từ năm 218 đến 222. Là một thành viên của nhà
Bản đồ của đế quốc La Mã vào băm 125 CN, dưới thời hoàng đề [[Hadrian, **Legio III Gallica**,đóng quân tại Raphana (Abila, Jordan), ở tỉnh Syria từ năm 30 TCN tới thế kỉ thứ
Chân dung Julia Maesa trên một đồng tiền xu từ [[Sidon. Mặt bên là Astarte.]] **Julia Maesa** (7 tháng 5 năm 165 –ca. 3 tháng 8, 226) là một công dân La Mã và con
**Marcus Aurelius Severus Alexander Augustus** thường được gọi là **Alexander Severus** hay **Severus Alexander** (1 tháng 10 năm 208 - 21 hoặc 22 tháng 3 năm 235) là Hoàng đế La Mã từ năm 222
**Macrinus** (; 165 – 218), là Hoàng đế La Mã từ năm 217 đến 218. Macrinus là người gốc Berber (người dân bản địa Bắc Phi) và là một thành viên thuộc tầng lớp kị
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
Ngày **8 tháng 6** là ngày thứ 159 (160 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 206 ngày trong năm. ## Sự kiện * *68 – Viện nguyên lão tuyên bố Galba là hoàng đế.
Ngày **11 tháng 3** là ngày thứ 70 (71 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 295 ngày trong năm. ## Sự kiện *222 – Hoàng đế La Mã Elagabalus và mẹ bị Cấm vệ
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 CN, dưới triều đại của [[Hadrian, cho thấy **Legio IIII Scythica**, đóng quân tại Zeugma(nr. Gaziantep, Thổ Nhĩ Kỳ) trên sông Euphrates, tại tỉnh Syria,
Trong suốt lịch sử, một số thành viên của các gia tộc quân chủ và quý tộc có quan hệ cùng giới. Ngay cả ở những khu vực tài phán mà đồng tính luyến ái
**Syria** ( hoặc ), quốc hiệu là **Cộng hoà Ả Rập Syria** () là một quốc gia ở Tây Á, giáp với Liban và Địa Trung Hải ở phía tây, Thổ Nhĩ Kỳ ở phía
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Hôn nhân cùng giới** hay **hôn nhân đồng tính** là hôn nhân của hai người cùng giới tính hợp pháp. hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp hóa và công nhận ở 38 quốc
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Legio X Fretensis** (**quân đoàn thứ mười của eo biển**) là một quân đoàn La Mã được Augustus Caesar thành lập vào năm 41/40 trước Công nguyên để chiến đấu trong thời kì nội chiến
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Diadumenianus** (; 208 – 218), là con trai của Hoàng đế La Mã Macrinus và được cha mình tấn phong là _Caesar_ trong một thời gian ngắn từ tháng 5 năm 217 đến 218 và
Dưới đây là phả hệ của triều đại Severan, từng cai trị đế quốc La Mã: ImageSize = width:800 height:60 PlotArea = top: 0 width:790 left:10 bottom:20 Colors = id:yellow value:rgb(1,1,0.7) # light yellow
**Julia Domna** (170 – 217) là một thành viên của nhà Severus thuộc Đế quốc La Mã. Hoàng hậu và vợ của Hoàng đế La Mã Lucius Septimius Severus và là mẹ của Hoàng đế
Trại lính Castra Praetoria và thành Roma cổ đại Di tích Cổng Praetoria ngày nay **Castra Praetoria** là trại lính cổ đại (_castra_) của đội Cấm vệ quân _Praetorian Guard_ của Đế quốc La Mã.
**Gordianus I** (; 159 – 238) là Hoàng đế La Mã trong một tháng với con trai mình Gordianus II vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Bị cuốn vào một cuộc nổi
**Gordianus II** (; 192 – 238), là Hoàng đế La Mã trong một tháng với cha mình Gordianus I vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Trong cuộc chiến lật đổ Hoàng đế
right|thumb|Tranh khảm Sol ở Lăng mộ M ở [[Nghĩa địa cổ Vatican]] **Sol Invictus** ("Mặt Trời không thể khuất phục") là vị thần Mặt Trời chính thức của Đế chế La Mã sau này và là
**Chế độ chuyên quyền** (, _despotismós_) là một hình thức chính phủ trong đó một thực thể duy nhất cai trị với quyền lực tuyệt đối. Thông thường, thực thể đó là một cá nhân