✨Valentinianus II

Valentinianus II

Flavius ​​Valentinianus (371 - 15 tháng 5 năm 392), thường được gọi là Valentinianus II, là Hoàng đế của Đế quốc La Mã, ở ngôi từ năm 375 cho đến năm 392.

Thời niên thiếu và kế vị

Flavius ​​Valentinianus là con của Hoàng đế Valentinianus I và vợ thứ hai là Justina. Ông là một người em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế Gratianus - người đã đồng trị vì với vua cha Valentinianus I kể từ năm 367. Ông có ba người chị/em gái là Galla, Grata và Justa. Vị Hoàng đế già nua Valentinianus I qua đời trong chiến dịch ở Pannonia năm 375. Trước tình hình này, cả Gratianus (sau đó ở Trier), lẫn người chú Valens (Hoàng đế Đông La Mã) của ông đều không được các tướng lĩnh vời về kinh để tôn một trong hai người làm vua. Thay vì chỉ đơn thuần thừa nhận Gratianus là Hoàng đế kế tục vua cha, các thống soái của tiên hoàng Valentinianus I tuyên bố cậu bé bốn tuổi là Augustus vào ngày 22 tháng 11 năm 375.

Trị vì tại Milano (375 - 387)

Gratianus buộc phải hòa giải với các vị tướng ủng hộ Valentianus, ông ta làm vua các tỉnh bên ngoài dãy Anpơ (bao gồm cả Gaul, Hispania, và Anh), trong khi Ý, một phần của Illyricum, và châu Phi do vua Valentinianus II ngự trị. Vào năm 378, người chú của ông là Hoàng đế Valens bại vong trong trận đánh khốc liệt với người Goth tại Hadrianopolis và Gratianus vời tướng Theodosius I về nhận Vương trượng Hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã. Khi còn nhỏ, Valentinianus II nằm dưới ảnh hưởng của người mẹ theo phái Aria của ông là Hoàng thái hậu Justina, và triều đình tại kinh thành Milano, đã có sự tranh chấp ảnh hưởng với Giám mục Công giáo thành Milano là Ambrose.

Justina sử dụng ảnh hưởng của bà đối với ấu chúa Valentinianus II để phản đối phe Nicea - những người hùa theo Giám mục Ambrose. Vào năm 385, Ambrose, được sự hậu thuẫn bởi thị dân Milano, từ chối yêu cầu của Triều đình là bàn giao Nhà thờ Portian cho phái Aria. Vào năm 386, Giám mục Giáo phái Aria là Auxentius vào chầu Thái hậu Justina và Hoàng đế Valentinianus II, và Ambrose một lần nữa lại được lệnh bàn giao một nhà thờ ở kinh thành Milano cho giáo phái sử Arian sử dụng. Ambrose và tăng lữ dưới quyền quyết tâm giữ lấy nhà thờ, và triều đình đã hủy bỏ yêu cầu trên

Vào năm 383, Magnus Maximus, chỉ huy quân đoàn La Mã ở Anh, tự xưng Hoàng đế và hùng cứ ở Gaul và Hispania. Trên đường chạy loạn, Hoàng đế Gratianus bị sát hại. Trong một khoảng thời gian, Triều đình vua Valentinianus II, thông qua sự trung gian của Giám mục Ambrose, đã đi đến một sự hòa giải với kẻ cướp ngôi, và vua Theodosius I cũng phải công nhận Maximus là đồng Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã. Tuy nhiên, trong năm 386 hoặc 387, Maximus thân chinh kéo đại quân vượt qua dãy Anpơ tiến vào thung lũng sông Po và uy hiếp kinh thành Milano. Valentinianus II và Justina trốn sang tỵ nạn tại tỉnh Thessalonica của Theodosius I. Sau đó hai mẹ con Valentinianus II thỏa thuận với Hoàng đế Theodosius I, củng cố bởi cuộc hôn nhân của ông này với Galla, em gái Hoàng đế Valentinianus II, để trung hưng hoàng quyền của vị ấu chúa của Đế quốc Tây La Mã. Vào năm 388, Theodosius I thân chinh tổ chức hành binh về phương Tây và Maximus bị đánh cho đại bại. Mặc dù ông ta phong Hoàng đế cho cả hai cậu con trai của mình (Arcadius năm 383, Honorius trong năm 393), Theodosius vẫn trung thành với triều đại của Valentinianus I năm xưa.

Cai trị ở Vienne(388-392)

Một đồng [[solidus (tiền xu)|solidus được đúc bởi Valentinian II. Trên mặt trái, cả Valentinian và Theodosius I được tôn vinh như là người chiến thắng.]] Sau thất bại của Maximus, Theodosius lưu lại ở Milan cho đến năm 391. Valentinianus đã không có mặt trong lễ kỷ niệm chiến thắng của Theodosius trước Maximus. Valentinianus và triều đình của ông đã được bố trí tại Vienne ở Gaul, trong khi Theodoisus bổ nhiệm các quan chức chủ chốt ở phương Tây, và đã đúc tiền kim loại có hàm ý giám hộ ông qua năm 17 tuổi Justina cũng đã qua đời, và Vienne đã nằm xa ảnh hưởng của Ambrose. Vị tướng đáng tin cậy của Theodosius, Arbogast người Frank, được bổ nhiệm làm Magister militum cho các tỉnh phía Tây (trừ châu Phi) và cũng người giám hộ của Valentinianus. Mặc dù trên danh nghĩa là phục vụ Valentinianus, Arbogast thực sự là quan chức của Theodosius. Trong khi vị tướng này tiến hành chiến dịch thành công trên sông Rhine, vị hoàng đế trẻ tuổi vẫn còn ở Vienne, trái ngược với người cha chiến binh của ông và anh trai ông, người đã tham gia các cuộc chiến lúc bằng tuổi ông. Sự chi phối của Arbogast đối với vị hoàng đế là đáng kể, và vị tướng này thậm chí sát hại Harmonius, một người bạn của Valentinianus bị nghi ngờ nhận hối lộ, trước sự chứng kiến của hoàng đế.

Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi Arbogast ngăn cấm hoàng đế lãnh đạo quân đội xứ Gaul tiến vào Ý để chống lại một mối đe dọa từ các tộc man rợ. Valentinianus liền đáp trả, chính thức cắt chức Arbogast.

Valentinianus cũng còn viết thư cho Theodosius và Ambrose phàn nàn của sự lệ thuộc của mình vào vị tướng này. Để từ bỏ giáo phái Aria của mình, ông mời Ambrose đến Vienne để rửa tội ông.

Tuy nhiên, vào ngày 15 tháng 5 năm 392, Valentinianus đã treo cổ tại nơi cư trú của ông ở Vienne. Arbogast vẫn cho rằng cái chết của hoàng đế là do tự sát. Trong khi nguồn chính của chúng ta, do Zosimus viết vào đầu thế kỷ thứ sáu ở Constantinopolis, nói rằng vị tướng Frank đã sát hại Valentinianus

Lúc đầu, Arbogast chấp nhận Arcadius con trai hoàng đế Theodosius là hoàng đế ở phía Tây, dường như ngạc nhiên bởi cái chết bất ngờ của mình. Sau ba tháng mà không có tin tức gì từ Theodosius, Arbogast đã chọn một quan chức triều đình, Eugenius, làm hoàng đế. Theodosius ban đầu chấp nhận chế độ này, nhưng trong tháng 1 năm 393, ông lại chọn Honorius là Augustus để kế vị Valentinianus II. Nội chiến xảy ra sau đó và trong năm 394, Theodosius đánh bại Eugenius và Arbogast.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Flavius ​​Valentinianus **(371 - 15 tháng 5 năm 392), thường được gọi là **Valentinianus II**, là Hoàng đế của Đế quốc La Mã, ở ngôi từ năm 375 cho đến năm 392. ## Thời niên
**Valentinianus I** (; 321-17 tháng 11 năm 375), cũng gọi là **Valentinianus Đại đế**, Ông là Hoàng đế La Mã từ năm 364-375. Sau khi trở thành hoàng đế ông, em trai của ông hoàng
**Flavius Placidius Valentinianus** (2 tháng 7, 419 – 16 tháng 3, 455), được biết đến với tên gọi là **Valentinianus III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 425 đến 455. ##
**Gratianus** (; 18 tháng 4 năm 359 - 25 tháng 8 năm 383), là Hoàng đế La Mã từ năm 375-383. Ông là con trai cả của Valentinianus I, trong suốt thời niên thiếu của
**Theodosius II** (tiếng Latin: _Flavius Theodosius Junior Augustus_; 401 – 450) thường gọi là **Theodosius Trẻ** hoặc **Theodosius Nhà thư pháp**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**Magnus Maximus **(Latin: Flavius ​​Magnus Maximus Augustus) (khoảng 335-28, 388), còn được gọi là **Maximianus** và **Macsen Wledig** trong tiếng Wales, Hoàng đế Tây La Mã từ năm 383-388. Khi là chỉ huy của nước
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Flavius ​​Merobaudes** (mất năm 383 hoặc 388) là một vị tướng La Mã có nguồn gốc từ người Frank. Merobaudes là một quan chức của Hoàng đế La Mã Julianus (361-363). Ông được giao phó
**Valens **(Latin: Augustus Valens Flavius ​​Julius; 328-9 tháng 8 năm 378) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 364-378. Ông đã được trao cho nửa phía đông của đế quốc bởi Valentinianus I, anh
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Flavius Eugenius** (? – 394) là kẻ tiếm vị ngôi vua của Đế quốc Tây La Mã, trị vì từ năm 392 đến 394 nhằm chống lại Hoàng đế Theodosius I. Dù sùng đạo Cơ
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Trận Carthage** diễn ra vào ngày 19 tháng 10 năm 439, thành Carthage – một trong những thành phố quan trọng nhất của Đế quốc Tây La Mã – đã bị người Vandal chiếm giữ.
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Flavius Eutropius** là một nhà sử học La Mã cổ đại sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ 4. Ông từng giữ chức thư ký _magister memoriae_ ở Constantinopolis và chấp chính quan cùng Valentinianus
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**Majorianus** () (420 – 461), là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 457 đến 461. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội thời Hậu La Mã, sau khi phế truất vị
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Anicius Olybrius** (? - 472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ tháng 4 hoặc tháng 5 năm 472 cho tới khi ông mất. Thực tế ông chỉ là một vị Hoàng đế
Trong lịch sử, đã có những vị đế vương vì có công với việc thay đổi Quốc gia nên họ được gọi là "Vĩ đại". Ở Ba Tư, danh từ này được sử dụng lần
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] **Người Vandal** là một bộ tộc Đông German,
**Vương quốc Vandal** () hoặc **Vương quốc Vandal và Alan** () là một vương quốc được thành lập bởi người Vandal dưới thời vua Gaiseric ở Bắc Phi and the Địa Trung Hải từ năm
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
nhỏ|Một chi tiết từ đĩa bạc _Missorium của Aspar_, khắc họa viên thống chế _magister militum_ đầy quyền uy **Aspar** và ngươi con trưởng [[Ardabur (khoảng năm 434).]] **Flavius Ardabur Aspar** (khoảng 400 – 471)
**Theodoric I** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; ; ? – 451), gọi theo tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý là _Teodorico_, là một vị vua German của người Visigoth trị vì từ năm
nhỏ|Lâu đài nhìn từ phía tây **Lâu đài Trứng** (tiếng Ý: **_Castel dell'Ovo_**; tiếng Latinh: _Castrum Ovi_; tiếng Anh: _Egg Castle_) là một lâu đài bên bờ biển ở thành phố Napoli, trước đây là
nhỏ|Một trang của De Re Militari, không rõ là quyển nào. Được ghi lại bằng tiếng Latin **De Re Militari** là tác phẩm quân sự của đế chế La Mã được viết vào cuối thế
Comes **Bonifacius** (Anh hóa là **bá tước Boniface**) (mất năm 432) là một vị tướng La Mã và thống đốc của giáo khu châu Phi. Cùng với đối thủ của mình, Flavius ​​Aëtius, ông đôi
nhỏ|Vị trí nhà thờ thumb|Video: Bên trong nhà thờ (2008) **Nhà thờ chính tòa Thánh Isaac** hoặc **Isaakievskiy Sobor** () ở Sankt-Peterburg, Nga là nhà thờ chính tòa Chính thống giáo Nga (_Sobor_, trụ sở