Flavius Eutropius là một nhà sử học La Mã cổ đại sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ 4. Ông từng giữ chức thư ký magister memoriae ở Constantinopolis và chấp chính quan cùng Valentinianus II vào năm 387, rồi được đi theo Hoàng đế Julianus (361-363) trong cuộc chinh phạt chống lại người Ba Tư vào năm 363, ông còn sống tới tận thời Valens (364-378), vị hoàng đế mà ông đã dâng cuốn Breviarium historiae Romanae (Lược sử La Mã) và cũng từ đó không còn tung tích gì về ông nữa.
Breviarium historiae Romanae là một bản tóm tắt đầy đủ gồm 10 tập nói về lịch sử La Mã từ khi thành lập thành phố cho đến lúc Valens lên ngôi. Bộ sử được biên soạn với sự khổ công thu thập từ các nguồn tài liệu được sử dụng tốt nhất và được viết chung với một văn phong rõ ràng và đơn giản mang tính vô tư. Mặc dù tiếng Latinh trong một số trường hợp khác được lấy từ những tấm gương đức hạnh, tác phẩm vẫn là bộ sách dành cho cấp tiểu học được yêu thích trong một thời gian dài. Giá trị độc lập của nó tuy nhỏ, nhưng đôi khi nó lấp đầy một khoảng trống mà các nguồn sử liệu có căn cứ xác đáng còn thiếu sót. Đối với những phần đầu trong tác phẩm của mình, Eutropius còn chịu ảnh hưởng từ bộ lược sử của Livy; với những phần sau này, ông chuyển sang sử dụng Enmannsche Kaisergeschichte nay đã thất truyền để tham khảo. Breviarium còn được nhà sử học thời Trung Cổ Paulus Diaconus mở rộng và viết tiếp đến đến thời Justinianus; bộ sử lần lượt được các nhà sử học về sau mở rộng thêm như Landolfus Sagax (khoảng 1000) và viết tiếp đến đến thời của hoàng đế Leo xứ Armenia (813-820) trong Historia Miscella.
Ngoài ra còn các bản dịch tiếng Hy Lạp của Paeanius (khoảng 380) và Capito Lycius (thế kỷ 6), các bản dịch trước đây là còn tồn tại trong một trạng thái gần như vẹn toàn. Bản dịch tốt nhất của Eutropius là của H. Droysen năm 1879, bao gồm các bản dịch tiếng Hy Lạp và các bản dịch bổ sung của Paulus Diaconus và Landolfus. Có rất nhiều phiên bản và bản dịch tiếng Anh.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Flavius Eutropius** là một nhà sử học La Mã cổ đại sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ 4. Ông từng giữ chức thư ký _magister memoriae_ ở Constantinopolis và chấp chính quan cùng Valentinianus
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Enmannsche Kaisergeschichte** (trong tiếng Anh thường gọi là _Enmann's Kaisergeschichte_) là một thuật ngữ hiện đại nói về một tác phẩm lịch sử Latinh giả định được viết vào thế kỷ thứ 4 nhưng nay
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Cuộc cướp phá thành Rome** vào ngày 24 tháng 8 năm 410 do người Visigoth dưới sự lãnh đạo của vua Alaric tiến hành. Vào thời điểm đó, Rome không còn là thủ đô hành
**Aemilianus** (; khoảng 207/213 – 253), là Hoàng đế La Mã được 3 tháng vào năm 253. Aemilianus là chỉ huy quân đội La Mã ở Moesia, nhờ giành một chiến thắng quan trọng chống
**Quintillus** (; 220 – 270), là Hoàng đế La Mã ở ngôi được gần một năm vào năm 270. ## Tiểu sử ### Gia thế Quintillus sinh ra tại Sirmium ở vùng Hạ Pannonia vào
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Gallienus** (; 218 – 268) là Hoàng đế La Mã với cha mình Valerianus từ năm 253 đến 260 và một mình từ năm 260 đến 268. Ông đã cai trị trong cuộc khủng hoảng
**Cuộc chinh phục Britannia của La Mã** là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius
**Trận Pollentia** diễn ra vào ngày 6 tháng 4 năm 402 giữa quân La Mã do tướng Stilicho chỉ huy và người Visigoth dưới sự lãnh đạo của Alaric I, trong cuộc xâm lược nước
**Alaric I** (_Alareiks_ trong tiếng Goth nghĩa là "vua của tất cả") được cho là sinh vào khoảng năm 370 CN ở một hòn đảo mang tên Peuce ở cửa sông Danube mà ngày nay
**Arcadius** (; ; 377/378 – 1 tháng 5, 408) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 395 đến 408. Ông là con trưởng của Hoàng đế Theodosius I và người vợ đầu Aelia Flaccilla
**Flavius Claudius Constantinus**, tiếng Anh hiểu là **Constantine II** là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã (trị vì:337-340). Constantinus II là con trai cả của Constantine Đại đế và hoàng hậu Fausta.
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I
**Flavius Valerius Constantius** (khoảng ngày 31 tháng 3 năm 250-25 tháng 7 năm 306), thường được gọi là Constantius I hoặc Constantius Chlorus, là Hoàng đế La Mã giai đoạn năm 293-306. Ông là cha
nhỏ|phải|Vở [[Opera của Claudius Claudianus - bản dịch tiếng Đức của Georg Freiherr von Wedekind năm 1868]] **Claudius Claudianus** mà trong tiếng Anh thường gọi là **Claudian** (370 – 404), là một nhà thơ Latinh
**Flavius Rufinus** (? – 395) là chính khách của Đế quốc Đông La Mã thế kỷ thứ 4 gốc Gaul giữ chức Pháp quan thái thú các tỉnh phía Đông (_Praetorian prefect of the East_)
**Đại dịch Antonine** từ năm 165 đến 180, còn được gọi là Đại dịch Galen (tên của bác sĩ Hy Lạp sống ở Đế quốc La Mã đã mô tả bệnh dịch này), là một
Danh sách sau đây cung cấp thông tin về các giám mục và tổng giám mục của Giáo phận Mainz trong suốt lịch sử của nó. Vào thời cực thịnh, các tổng giám mục Mainz