✨Constantius III

Constantius III

Flavius Constantius (? – 421) còn được biết đến với tên gọi Constantius III, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì trong vòng bảy tháng vào năm 421. Là nhà chính trị và là một tướng lãnh xuất chúng, đồng thời ông còn là người nắm giữ quyền bính đằng sau ngai vàng trong những năm 410. Năm 421, ông được tôn lên làm đồng Hoàng đế của Đế chế Tây La Mã trong một thời gian ngắn cùng với Honorius.

Tiểu sử

Trước khi lên ngôi

nhỏ|trái|[[Tranh bộ đôi về quan lãnh sự của Constantius III, được chế tạo khi ông giữ chức quan chấp chính tối cao vào năm 413 hoặc 417.]]

Constantius sinh tại Naissus (ngày nay là Niš, Serbia), khởi đầu từ binh nghiệp trong quân đội, dần dần được thăng lên chức Tổng tư lệnh quân đội (Magister militum) dưới quyền Honorius.

Năm 411, Constantius chỉ huy quân đội đánh bại Gerontius, viên tướng của kẻ cướp ngôi Maximus, và Constantine III, một kẻ cướp ngôi khác tại Arles. Constantine nổi loạn chống lại Honorius vào năm 407, nhưng sau đó ông đã phá vỡ mối quan hệ với tướng Gerontius, người từng tuyên bố ủng hộ Maximus làm Hoàng đế trước sự phản đối của cả Honorius và Maximus vào năm 409. Năm 411, Gerontius bắt đầu bao vây Constantine tại thành phố Arles, nhưng sự xuất hiện của quân đội trung thành với Constantine từ Ý đã tới chi viện kịp thời khiến Gerontius rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Sau cùng, Gerontius bị quân đội của ông bỏ rơi và bị giết chết tại Hispania. Constantine tiếp tục vây hãm thành phố thêm ba tháng nữa cho tới khi viên tướng của Constantine là Edobichus trở về với một đội quân liên minh đông đảo gồm người Franks và Alamanni. Trước cuộc chạm trán dữ dội, Constantine đánh tan quân đội của Edobichus, người sau này bị phản bội và bị giết bởi một người bạn thân. Constantine buộc phải đầu hàng Constantius khi quân đội của ông trên sông Rhine đã bỏ rơi ông để theo một kẻ cướp ngôi khác là Jovinus. Constantius hứa sẽ chu cấp nơi ăn chốn ở và đảm bảo an toàn tính mạng cho Constantine, về sau ông trở thành một linh mục được thụ phong, nhưng sau đó ông bị bắt và giết chết.

Năm 412, Constantius bị người Visigoth dưới quyền Ataulf trục xuất ra khỏi Ý. Năm 413 được phong làm chấp chính quan đầu tiên. Năm 414 ông bắt đầu phát động một cuộc tấn công quân sự chống lại người Visigoth. Đáp lại, Ataulf bổ nhiệm Priscus Attalus, kẻ đã từng chống lại Honorius vào năm 410 lên ngôi hoàng đế. Constantius cho tiến hành áp đặt lệnh phong tỏa các bến cảng ở Gallic, lệnh phong tỏa tỏ ra có hiệu quả đã buộc người Visigoth phải rời khỏi Gaul để tới định cư tại Hispania vào năm 415. Ngoài ra Attalus đã cố gắng chạy trốn nhưng bị quân của Constantius bắt được và gửi tới Ravenna. Với cái chết của Ataulf và người kế vị ông là Segeric, cùng năm, Constantius đã ký một hiệp ước với vị vua mới Wallia của người Visigothic: trong hiệp ước quy định việc trao đổi 600.000 giạ lúa mì và lãnh thổ của vùng Nouvelle-Aquitaine, từ Pyrenees cho đến Garonne, người Visigoth cam kết sẽ chiến đấu nhân danh những người La Mã, như là đồng minh chính thức hoặc nước chư hầu của đế chế (foederati), người Vandal, người Alan và Suebi (tộc người rợ vào năm 407 đã vượt sông Rhine và trú đóng tại các tỉnh ở Hispania). Thỏa thuận này cũng quy định việc trả tự do cho Galla Placidia, em gái của Honorius, bị bắt giữ trong vụ cướp phá thành Roma năm 410.

Năm 417, Constantius được bổ nhiệm làm Patricius, cùng nhiệm kỳ thứ hai của quan chấp chính với Honorius, cùng năm đó, ông kết hôn với Galla Placidia, tự buộc mình vào Dòng họ Theodosius. Cuộc hôn nhân này giúp vợ ông hạ sinh hai đứa con, Justa Grata Honoria (sinh 417 hoặc 418) và hoàng đế tương lai Valentinian III (sinh năm 419). Năm 420, ông được bổ nhiệm làm quan chấp chính tối cao (Consul) lần thứ ba cùng với Hoàng đế Đông La Mã, Theodosius II.

Thời kỳ trị vì

Ngày 8 tháng 2 năm 421, Constantius được bổ nhiệm làm đồng Hoàng đế Tây La Mã cùng với người anh rể bất lực, Honorius, người chủ thực sự của Đế chế phương Tây. Tuy nhiên, ông thường hay phàn nàn về việc mất tự do cá nhân khi phải đảm trách vai trò mới đầy những áp lực nặng nề. Việc lựa chọn Constantius làm Hoàng đế không được Hoàng đế Đông La Mã Theodosius II, cháu của Honorius công nhận.

Thời kỳ trị vì của Constantius quá ngắn nên chẳng để lại một sự kiện hay một chiến công rực rỡ nào cho Đế chế, một số nguồn tài liệu chỉ cho biết là ông định dự tính tổ chức một cuộc viễn chinh quân sự về phía Đông để buộc triều đình phương Đông phải công nhận quyền hợp pháp ngôi vua của ông, chưa kịp thực hiện ý định đó thì Constantius mất đột ngột vào ngày 2 tháng 9 năm 421 chỉ sau bảy tháng làm hoàng đế, ông được một số sử gia coi như hình mẫu tiêu biểu của một nhà chính trị và tướng lĩnh có tài năng mà Đế chế Tây La Mã đang rất cần vào thời điểm đó.

Trước khi lên ngôi, Constantius tỏ ra khá thành công trong cuộc đời binh nghiệp, uy tín của ông sẽ còn ảnh hưởng đến các viên sĩ quan quý tộc về sau như Flavius Aëtius và Ricimer, tuy nhiên chỉ có Petronius Maximus là không bao giờ thực hiện các bước tương tự, và triều đại của ông thậm chí còn ngắn hơn so với triều đại của Constantius.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Flavius Constantius** (? – 421) còn được biết đến với tên gọi **Constantius III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì trong vòng bảy tháng vào năm 421. Là nhà chính trị và là
**Flavius Placidius Valentinianus** (2 tháng 7, 419 – 16 tháng 3, 455), được biết đến với tên gọi là **Valentinianus III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 425 đến 455. ##
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
thumb|right|Tượng nhà vua ở thủ đô [[Madrid, của điêu khắc gia Felipe de Castro, 1750-53]] **Athaulf** (còn gọi là _Atavulf_, _Atawulf_, hay _Ataulf_, Latinh hóa thành _Ataulphus_) [_atta_ "cha" và _wulf_ "sói"] (khoảng 37015 tháng
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Goar** (sinh khoảng năm 390 – mất năm 446 hoặc 450) là thủ lĩnh người Alan ở xứ Gaul vào thế kỷ 5. Ông lãnh đạo người dân trong bộ tộc vượt qua sông Rhine
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
Ngày **8 tháng 2** là ngày thứ 39 trong lịch Gregory. Còn 326 ngày trong năm (327 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *1971 – Chiến tranh Việt Nam: Lục quân Việt Nam Cộng
**Ngày 2 tháng 9** là ngày thứ 245 trong mỗi năm thường (ngày thứ 246 trong mỗi năm nhuận). Còn 120 ngày nữa trong năm. ## Sự kiện *47 TCN – Pharaoh Cleopatra VII tuyên
**Niš** (tiếng Serbia: Ниш) là thành phố lớn nhất ở miền nam Serbia. Thành phố Niš có diện tích 597  km², dân số là 260.237, trong đó nội thị là 231.590 người. Đây là thành
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
Ngày **25 tháng 12** là ngày thứ 359 (360 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 6 ngày trong năm. ## Sự kiện *36 – Sau khi Công Tôn Thuật tử chiến vào hôm trước,
**Liberius** (Tiếng Việt: Libêriô; Tiếng Anh: Liberius) là người kế nhiệm Giáo hoàng Julius I và là vị Giáo hoàng thứ 36 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Ngày **19 tháng 2** là ngày thứ 50 trong lịch Gregory. Còn 315 ngày trong năm (316 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *197 – Hoàng đế La Mã Septimius Severus đánh bại Clodius
nhỏ|Hagia Sophia nhìn từ bên ngoài Hagia Sophia, Istanbul **Hagia Sophia** (tiếng Hy Lạp: Ἁγία Σοφία, "Sự khôn ngoan của Thiên Chúa", tiếng Latinh: _Sancta Sapientia_, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Ayasofya_) ban đầu là một
**Zosimos** ( ; còn được biết đến với cái tên Latinh là **Zosimus Historicus**, hay là "Zosimus Nhà sử học"; khoảng thập niên 490 – thập niên 510) là một sử gia gốc Hy Lạp
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
nhỏ|phải|[[Giáo hoàng đối lập Felix II]] Giáo hoàng đối lập **Felix II** là được xem như một Giáo hoàng vào năm 355 sau khi Hoàng đế Constantinus II đưa đi lưu đày Giáo hoàng Liberius
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
nhỏ|296x296px| Tranh khảm Byzantine là một trong những tác phẩm lừng danh còn sót lại của [[Hagia Sophia ở Constantinople - chân dung của Christ Pantocrator trên các bức tường của phòng trưng bày phương