✨Homeros

Homeros

Hómēros (tiếng Hy Lạp: μηρος, tiếng Anh: Homer ) tương truyền là tác giả của các tác phẩm sử thi nổi tiếng Iliad () và Odyssey (). Ông được coi là một trong những nhà thơ Hy Lạp cổ đại xuất sắc nhất. Hai tác phẩm IliadOdyssey đã tường thuật lại diễn biến của cuộc chiến thành Troy tương truyền đã từng xảy ra vào thế kỷ 13 TCN. với quy mô và giá trị nội dung và nghệ thuât vô cùng đồ sộ, những trang sử thi của Homer đã đặt nền móng cho sự phát triển của văn học Hy Lạp cổ đại nói riêng và toàn bộ nền văn học phương Tây nói chung về sau này.

.

Giai đoạn lịch sử

thumb|left|Một phần củ[[Thế kỷ 11|I, "the Townley Homer". Chữ viết phía trên và bên phải là các chú thích.]] Đối với các học giả hiện nay, "thời đại Homer" không nói đến bản thân ông, mà nhắc đến một giai đoạn khi các sử thi như Illiad hay Odyssey được sáng tác. Mọi người đều đồng thuận rằng "Iliad và Odyssey được sáng tác từ khoảng thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên. Iliad được sáng tác trước Odyssey, có thể chênh vài chục năm". Điều này cho thấy, với việc ra đời sớm hơn Hesiod, Iliad đã trở thành tác phẩm lâu đời nhất của văn học phương Tây.

Trong vài thập kỷ qua, một số học giả đã đặt thời điểm này vào thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Oliver Taplin tin rằng kết luận của các nhà nghiên cứu hiện đại là Homer sống trong khoảng thời gian 750-650 trước Công nguyên. Một số người lập luận rằng những bài thơ được Homer viết dần dần trong một thời gian dài đến ngày bài thơ được công bố, thậm chí sau khi công bố một phần, bài thơ của ông mới được bổ sung các thành phần còn lại. Theo Gregory Nagy, các bài thơ chỉ trở thành các tác phẩm cố định trong thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Các câu hỏi về tính lịch sử của cá nhân Homer được biết đến như là "vấn đề Homer". Vấn đề này không được giải quyết do không có thông tin tiểu sử đáng tin cậy lưu truyền từ thời cổ đại. Những bài thơ của Homer thường được xem là đỉnh cao của nhiều thế hệ thông qua kể chuyện truyền khẩu, theo văn hóa thơ dân gian với niêm luật quy định chặt chẽ. Một số học giả, chẳng hạn như Martin West, cho rằng "Homer không phải là tên của một nhà thơ lịch sử cụ thể, mà là một cái tên hư cấu hoặc xây dựng nên".

Cuộc sống và huyền thoại

thumb|Homer và người dẫn đường, của [[William-Adolphe Bouguereau (1825–1905), vẽ chân dung Homer tại Núi Ida, với đàn chó vây quanh và được người chăn cừu Glaucus dẫn đường (dẫn chứng từ Pseudo-Herodotus)]] "Homer" là một cái tên Hy Lạp, được nhắc đến rộng rãi trong các vùng nói tiếng Aeolic, và mặc dù không có gì rõ ràng về ông, truyền thuyết đã cung cấp chi tiết về nơi sinh và nguồn gốc của Homer. Nhà văn châm biếm Lucian, trong tác phẩm True History, mô tả ông như một người Babylon tên là Tigranes, sau đó đổi tên thành Homer khi bị trở thành "con tin" (homeros) của người Hy Lạp. Khi Hoàng đế Hadrian hỏi Oracle ở Delphi về Homer, các tiên nữ Pythia tuyên bố rằng ông là Ithacan, con trai của Epikaste và Telemachus của tác phẩm Odyssey. Những chuyện này đã được đưa vào hàng loạt tiểu sử của Homer, viết từ thời Alexandria trở đi.

Trong nhiều văn bản được ghi lại, Homer được sinh ra trong khu vực Ionian của Tiểu Á, ở Smyrna, hoặc trên đảo Chios, và chết trên đảo Cycladic của Ios. Nhắc đến Smyrna được ám chỉ trong một huyền thoại nói tên gốc Homer là Melesigenes ("sinh ra tại Meles", một con sông chảy qua thành phố Smyrna), và mẹ của ông là nàng tiên Kretheis. Bằng chứng nội bộ từ những bài thơ của ông cho thấy ông rất quen thuộc với địa hình và địa danh của khu vực này của Tiểu Á (Anatolia). Ví dụ Homer đề cập đến đồng cỏ chim tại cửa Caystros, một cơn bão ở vùng biển Icarian, và nói rằng phụ nữ vùng Maeonia và Caria nhuộm ngà voi màu đỏ.

Những liên quan của Homer đối với Chios có từ khi Semonides của Amorgos, người đã trích dẫn một câu nói nổi tiếng trong Iliad (6,146) là do "người đàn ông của Chios" viết ra. Một nhóm thi sĩ cùng tên, được gọi là Homeridae (con trai của Homer) hoặc Homeristae (Homer nhái), hình như đã tồn tại ở Chios, khi các nhà ngôn ngữ học truy tìm gốc gác của tên đó. Cũng có thể nhóm nhà thơ trên duy trì chức năng của họ như là những người hâm mộ chỉ chuyên đọc thơ Homer. Wilhelm Dörpfeld cho thấy rằng Homer đã đến thăm nhiều nơi và khu vực mà ông mô tả trong sử thi của mình, chẳng hạn như Mycenae, Troy và các thành phố khác. Theo Diodorus Siculus, Homer thậm chí đã đến thăm Ai Cập.

Tên của nhà thơ đồng âm với từ ὅμηρος (hómēros), nghĩa là "con tin" (hoặc "bảo lãnh"), được hiểu theo nghĩa "người đi cùng, người bị buộc phải làm theo" hoặc, trong một số phương ngữ, "mù". Điều này dẫn đến nhiều người cho rằng ông là một con tin hoặc một người mù. Phong trào khẳng định ông bị mù có thể phát sinh từ ý nghĩa của các từ trong phương ngữ Iona, với động từ ὁμηρεύω (homēreúō) có ý nghĩa riêng là "hướng dẫn người mù", và các phương ngữ Aeolian của vùng Cyme, với từ ὅμηρος (hómēros) đồng nghĩa với từ Hy Lạp chuẩn τυφλός (tuphlós), có nghĩa là . Khẳng định Homer như một thi sĩ mù được ghi lại trong một số đoạn thơ trong Delian Hymn, thơ dâng thần Apollo, bài thứ ba của tập thánh ca Homer. Các câu trích dẫn sau này ủng hộ quan điểm trên đã được Thucydides ghi lại. Nhà sử học Cymean Ephorus cũng có quan điểm tương tự, và ý tưởng này được khẳng định trong thời kỳ Hy Lạp cổ với một từ nguyên ho mḕ horṓn (ὁ μὴ ὁρῶν: "người không nhìn thấy"). Các nhà phê bình đã cho rằng Homer đã mô tả chính mình trong một phân cảnh của Odyssey nói về một thi sĩ mù, Demodocus, trong triều đình của vua Phaeacian, người kể lại cuộc chiến thành Troy cho đến phần Odysseus bị đắm tàu​​.

Các tác phẩm được cho là của Homer

thumb|[[Iliad - thiên anh hùng ca của Homer, Cuốn VIII, dòng 245–53, bản tiếng Hy Lạp, cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ VI của Công nguyên.]] Người Hy Lạp trong thế kỷ thứ năm và sáu trước Công nguyên coi "Homer" là "toàn bộ truyền thống anh hùng thể hiện bằng thơ sử thi 6 chữ". Như vậy, ngoài các tác phẩm IliadOdyssey, có những sử thi đặc biệt được viết theo một "quy mô lớn" cũng được tính cho Homer. Nhiều công trình khác đã được coi là của Homer trong thời cổ đại, bao gồm toàn bộ các tác phẩm sử thi thời đó. Chúng bao gồm những bài thơ khác về cuộc chiến thành Troy, như Little Iliad, các bài thơ Nostoi, các sử thi CypriaEpigoni, cũng như những bài thơ Theban về Oedipus và con trai của ông ta. Các tác phẩm khác, chẳng hạn như tuyển tập các bài thánh ca Homer, sử thi ngắn Batrachomyomachia ("Cuộc chiến ếch chuột"), và sử thi Margites cũng được cho là của Homer, nhưng điều này hiện nay được cho là không phải. Hai bài thơ khác, Capture of OechaliaPhocais, cũng được cho là của Homer, nhưng câu hỏi ai là tác giả của các tác phẩm nhỏ trên thậm chí còn gây tranh cãi nhiều hơn so với câu hỏi ai là tác giả của hai sử thi lớn IlliadOdyssey.

Nhân thân và quyền tác giả

thumb|upright|Tượng Homer của Philippe-Laurent Roland ([[Viện bảo tàng Louvre|Bảo tàng Louvre)]] Ý tưởng cho rằng Homer chỉ sáng tác hai thiên anh hùng ca xuất sắc, IliadOdyssey, không giành được sự đồng thuận cho đến năm 350 TCN. Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng IliadOdyssey đã trải qua một quá trình gọt dũa và tiêu chuẩn hóa từ các tác phẩm cũ hơn, bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên. Vai trò quan trọng trong việc hiệu đính này có lẽ là do các bạo chúa Hipparchus tại thành Athens thực hiện thông qua việc thay đổi cách đọc thơ Homer tại lễ hội Panathena. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cải cách này phải có liên quan đến việc sáng tác ra một tác phẩm kinh điển hoàn toàn mới.

Vì không ai biết gì về cuộc đời của Homer, các nhà văn đã đùa rằng những sử thi trên "không phải do Homer viết, mà do một người đàn ông cùng tên viết ra". Samuel Butler lập luận dựa trên các chứng cứ văn học, đã khẳng định rằng một phụ nữ trẻ người Sicilia đã viết Odyssey (nhưng không phải là Iliad). Ý tưởng này được Robert Graves tiếp tục theo đuổi trong cuốn tiểu thuyết Con gái của Homer và Andrew Dalby trong cuốn sách Tái khám phá Homer.

Độc lập với câu hỏi về quyền tác giả duy nhất là đồng thuận gần như phổ quát, sau tác phẩm của Milman Parry, rằng những bài thơ Homer phụ thuộc vào truyền thống văn hóa truyền miệng, một kỹ thuật thế hệ cũ, mà là thừa kế tập thể của nhiều ca sĩ-nhà thơ (aoidoi). Một phân tích cấu trúc và từ vựng của IliadOdyssey cho thấy rằng những bài thơ chứa nhiều cụm từ công thức điển hình của truyền thống sử thi extempore; thậm chí toàn bộ câu được lặp lại nhiều lần. Parry và sinh viên Albert Lord đã chỉ ra rằng truyền thống truyền miệng như vậy, đối với văn hóa ngày nay là khá kỳ lạ, lại là điển hình của thơ ca sử thi trong một môi trường văn hóa chủ yếu được truyền miệng, những từ khóa chính là "miệng" và "truyền thống". Parry bắt đầu với "truyền thống": các khối ngôn ngữ lặp đi lặp lại, ông nói, được thừa kế bởi các ca sĩ-nhà thơ từ những nghệ sĩ tiền nhiệm của mình, và rất hữu ích cho anh ta trong sáng tác. Parry gọi những khối này là các "công thức".

Các nghiên cứu về Homer và tác phẩm của ông

Nghiên cứu về Homer là một trong những chủ đề lâu đời nhất trong học thuật, vốn có niên đại từ thời cổ đại. Mục tiêu và thành tựu của các nghiên cứu về Homer đã thay đổi trong suốt hàng thiên niên kỷ. Trong vài thế kỷ qua, các nghiên cứu này đã xoay quanh quá trình mà những bài thơ Homer xuất hiện và được truyền theo thời gian cho chúng ta, đầu tiên qua truyền miệng và sau này bằng văn bản.

Lịch sử xung quanh tác phẩm Illiad

Sách tham khảo

Các tác phẩm

;Nguyên bản bằng tiếng Hy Lạp

  • Demetrius Chalcondyles editio princeps, Florence, 1488
  • the Aldine editions (1504 and 1517)
  • 1st ed. with comments, Micyllus và Camerarius, Basel, 1535, 1541 (improved text), 1551 (incl. the Batrachomyomachia)
  • Th. Ridel, Strasbourg, c. 1572, 1588 and 1592.
  • Wolf (Halle, 1794–1795; Leipzig, 1804 1807)
  • Spitzner (Gotha, 1832–1836)
  • Bekker (Berlin, 1843; Bonn, 1858)
  • La Roche (Odyssey, 1867–1868; Iliad, 1873–1876, both at Leipzig)
  • Ludwich (Odyssey, Leipzig, 1889–1891; Iliad, 2 vols., 1901 and 1907)
  • W. Leaf (Iliad, Luân Đôn, 1886–1888; 2nd ed. 1900–1902)
  • William Walter Merry và James Riddell (Odyssey i–xii., 2nd ed., Oxford, 1886)
  • Monro (Odyssey xiii.–xxiv. with appendices, Oxford, 1901)
  • Monro and Allen (Iliad), and Allen (Odyssey, 1908, Oxford).
  • D.B. Monro and T.W. Allen 1917–1920, Homeri Opera (5 volumes: Iliad = 3rd edition, Odyssey = 2nd edition), Oxford. ISBN 0-19-814528-4, ISBN 0-19-814529-2, ISBN 0-19-814531-4, ISBN 0-19-814532-2, ISBN 0-19-814534-9
  • H. van Thiel 1991, Homeri Odyssea, Hildesheim. ISBN 3-487-09458-4, 1996, Homeri Ilias, Hildesheim. ISBN 3-487-09459-2
  • M.L. West 1998–2000, Homeri Ilias (2 volumes), Munich/Leipzig. ISBN 3-598-71431-9, ISBN 3-598-71435-1
  • P. von der Mühll 1993, Homeri Odyssea, Munich/Leipzig. ISBN 3-598-71432-7

Các bản dịch từng dòng

  • The Iliad of Homer a Parsed Interlinear, Handheldclassics.com (2008) Text ISBN 978-1-60725-298-6

Tác phẩm tổng quan về Homer

  • In German, 5th updated and expanded edition, Leipzig, 2005. In Spanish, 2003, ISBN 84-233-3487-2. In modern Greek, 2005, ISBN 960-16-1557-1.
  • Nikoletseas, M. M. (2012). The Iliad – Twenty Centuries of Translation. ISBN 978-1-4699-5210-9

Tác phẩm diễn giải Homer

  • (orig. publ. in German, 1946, Bern)

Tác phẩm bình luận Homer

  • Iliad: P.V. Jones (ed.) 2003, Homer's Iliad. A Commentary on Three Translations, Luân Đôn. ISBN 1-85399-657-2 G. S. Kirk (gen. ed.) 1985–1993, The Iliad: A Commentary (6 volumes), Cambridge. ISBN 0-521-28171-7, ISBN 0-521-28172-5, ISBN 0-521-28173-3, ISBN 0-521-28174-1, ISBN 0-521-31208-6, ISBN 0-521-31209-4 J. Latacz (gen. ed.) 2002–, Homers Ilias. Gesamtkommentar. Auf der Grundlage der Ausgabe von Ameis-Hentze-Cauer (1868–1913) (6 volumes published so far, of an estimated 15), Munich/Leipzig. ISBN 3-598-74307-6, ISBN 3-598-74304-1 N. Postlethwaite (ed.) 2000, Homer's Iliad: A Commentary on the Translation of Richmond Lattimore, Exeter. ISBN 0-85989-684-6 M. M. Nikoletseas, 2012, The Iliad – Twenty Centuries of Translation.. ISBN 978-1-4699-5210-9 M.W. Willcock (ed.) 1976, A Companion to the Iliad, Chicago. ISBN 0-226-89855-5
  • Odyssey: A. Heubeck (gen. ed.) 1990–1993, A Commentary on Homer's Odyssey (3 volumes; orig. publ. 1981–1987 in Italian), Oxford. ISBN 0-19-814747-3, ISBN 0-19-872144-7, ISBN 0-19-814953-0 P. Jones (ed.) 1988, Homer's Odyssey: A Commentary based on the English Translation of Richmond Lattimore, Bristol. ISBN 1-85399-038-8 ** I.J.F. de Jong (ed.) 2001, A Narratological Commentary on the Odyssey, Cambridge. ISBN 0-521-46844-2
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hómēros** (tiếng Hy Lạp: μηρος, tiếng Anh: **Homer** ) tương truyền là tác giả của các tác phẩm sử thi nổi tiếng _Iliad_ () và _Odyssey_ (). Ông được coi là một trong những nhà

**Thời kỳ Homeros** hay còn gọi là **Thời kỳ tăm tối, Kỷ Nguyên Bóng Tối** (khoảng 1200 TCN-800 TCN) là thuật ngữ đã được thường xuyên sử dụng để chỉ đến thời kỳ
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Aphrodite** (Việt hóa: **Aphrôđit/Aphrôđitê/Aphrôđitơ**, , phát âm tiếng Hy Lạp Attica: , tiếng Hy Lạp Koine , ) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, tình dục, sắc đẹp, niềm
thumb|upright=1.38|Đoạn mở đầu sử thi _[[Odyssey|Odyse_ của Hómēros]] **Tiếng Hy Lạp cổ đại** là hình thức tiếng Hy Lạp được sử dụng trong thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 3 TCN. Được nói bởi
Hesiod và [[Muse|Nàng Thơ, bởi Gustave Moreau. Ở đây ông được thể hiện với một cây đàn lia, mâu thuẫn với ghi chép của chính Hesiod, trong đó món quà của Nàng Thơ là một
**Thư viện Alexandria** ở thành phố Alexandria của Ai Cập từng là một trong những thư viện lớn và quan trọng nhất trong số các thư viện của thế giới cổ đại. Thư viện là
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
Trong thần thoại Hy Lạp cổ đại, **Eos** (Hy Lạp Ionic và Hy Lạp Homeros _Ēṓs_, Hy Lạp Attica _Héōs_, "bình minh", hoặc ; Hy Lạp Aeolic _Aúōs_, Hy Lạp Doric _Āṓs_) Theo nhà ngôn
nhỏ|300x300px|Minh họa của James McBryde cho câu chuyện "Oh, Whistle, And I'll Come To You, My Lad" của [[M. R. James.]] **Truyện ma** có thể là bất kỳ tác phẩm hư cấu, hoặc vở kịch
**Aristoteles** ( , _Aristotélēs_; chính tả tiếng Anh: **Aristotle**, phiên âm tiếng Việt: **A-rit-xtốt**; 384 – 322 TCN) là một nhà triết học và bác học người Hy Lạp cổ điển. Ông là một trong
**Ngữ hệ Ấn-Âu** là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn
**Thomas Jefferson** (13 tháng 4 năm 1743 – 4 tháng 7 năm 1826) là chính khách, nhà ngoại giao, luật sư, kiến trúc sư, nhà triết học người Mỹ. Ông là một trong các kiến
**_Harry Potter và Hòn đá Phù thủy_** (tiếng Anh: _Harry Potter and the Philosopher's Stone_) là ấn phẩm đầu tay và là phần đầu tiên của bộ tiểu thuyết Harry Potter của nhà văn người
**Antinous** hay **Antinoös** (; ; 27 tháng 11 năm 111 – trước ngày 30 tháng 10 năm 130) là một thanh niên Hy Lạp đến từ Bithynia và là người yêu của hoàng đế La
**Maximilian Karl Emil Weber** (; ; 21 tháng 4 năm 186414 tháng 6 năm 1920) là một nhà xã hội học, nhà sử học, nhà luật học và nhà kinh tế chính trị người Đức,
Trong thần thoại Hy Lạp, thần **Ares** (tiếng Hy Lạp: Άρης) là một trong mười hai vị thần trên đỉnh Olympus. Ares là con trai thứ hai của thần tối cao Zeus và nữ thần
**_Mahabharata_** (chữ Devanagari: महाभारत - _Mahābhārata_), từ Hán-Việt là **Ma-ha-bà-la-đa** là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là _Ramayana_.
**Voi** là động vật có vú thuộc họ Elephantidae và là động vật trên cạn lớn nhất hiện nay. Ba loài hiện được công nhận: Voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và
John F. Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ, bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 khi đang trên đoàn xe hộ tống đi qua Dealey Plaza tại Dallas, Texas. Kennedy,
**Núi Ólympos** (; , also , ) hay **núi Olympus** hoặc **Óros Ólimbos**, còn gọi là **Núi Ô Lim**, là ngọn núi cao nhất ở Hy Lạp. Đây là một phần của khối núi Ólympos
**Thessalía** hay **Thessaly** (, _Thessalía_ — tiếng Thessalia: , _Petthalia_) là một vùng địa lý truyền thống và một vùng hành chính của Hy Lạp, bao gồm phần lớn vùng Thessalía Cổ. Trước thời kỳ
Một nữ [[chiến binh với cây giáo]] **Giáo** là một loại vũ khí cận chiến gồm một trục (thường bằng gỗ) với một đầu nhọn. Mũi giáo có thể là một đầu của trục được
**1143 Odysseus** là một tiểu hành tinh Trojan Sao Mộc có quỹ đạo Điểm Lagrange thuộc hệ Mặt trời-Sao Mộc, ở "Trại Hy Lạp". Nó được đặt theo tên anh hùng Odysseus Laertiades Hy Lạp
**_Aeneis_** ( hoặc ) là một sử thi viết bằng tiếng Latin do tác gia Vergilius soạn giai đoạn 29–19 TCN. Tác phẩm được học giới coi là xuất sắc nhất trong văn học Latin
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**Thể dục nghệ thuật** là một bộ môn thể dục dụng cụ trong đó các vận động viên biểu diễn nhiều động tác (mỗi động tác trong khoảng 30 tới 90 giây) với nhiều dụng
nhỏ|Hình minh họa mô tả một cảnh trong Kinh thánh. Cảnh này thể hiện [[Phù thủy xứ Endor (bên phải) thực hiện nghi lễ chiêu hồn để gọi vong nhà tiên tri Samuel (ở giữa)
thumb|_Vụ bắt cóc Ganymede_ (ca. 1650) bởi [[Eustache Le Sueur]] Trong thần thoại Hy Lạp, **Ganymede** (; ; tiếng Hy Lạp: , _Ganymēdēs_) là hoàng tử của thành Troia. Hómēros miêu tả Ganymede là cậu
thumb|295x295px|Bình minh trên thảo nguyên Ukraina (1852), bởi [[Alexei Savrasov|Alexei Kondratievich Savrasov]] **_*H2éwsōs_** hoặc **_*haéusōs_** (PIE: *_h2éusōs_, _*haéusōs_ và nhiều biến thể khác; lit. 'bình minh') là tên gọi của nữ thần bình minh trong
**Zeno xứ Cititum** (tiếng Hy Lạp: Ζήνων ὁ Κιτιεύς, _Zēnōn ho Kitieus_, 334 TCN-262 TCN) là nhà triết học người Hy Lạp. Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa khắc kỷ. ## Cuộc đời
thumb|Bản đồ Thessaly cổ đại, Pherae nằm ở phía đông. thumb|Suối Hyperia ở Pherae, tranh của [[Edward Dodwell.]] **Pherae** (Hy Lạp: Φεραί) là một thành phố và polis (thành bang) nằm ở đông nam của
**Helene thành Troia** () là một phim sử thi do Robert Wise đạo diễn, xuất phẩm ngày 26 tháng 01 năm 1956 tại Bắc Mỹ. ## Lịch sử Truyện phim phỏng theo hai thiên sử
_Sói cái với [[Romulus và Remus_, tác phẩm điêu khắc của Francesco Biggi và Domenico Parodi tại Palazzo Rosso của Genova, Ý ]] Sói cái trên đồng xu của nước cộng hòa La Mã sau
nhỏ|phải|Bức họa có tên _The Merry Drinker_ (Bợm rượu đang ngà say), có niên đại khoảng những năm 1628–1630, của họa sĩ người Hà Lan [[Frans Hals.]] **Văn hóa rượu bia** (tiếng Anh: _drinking culture_),