✨Chiến tranh La Mã – Parthia

Chiến tranh La Mã – Parthia

Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung đột đầu tiên của những gì sẽ là cuộc chiến tranh La Mã-Ba Tư kéo dài 719 năm.

Những cuộc xâm lược đầu tiên chống lại Parthia của cộng hòa La Mã đã bị đẩy lui, đáng chú ý là trong trận Carrhae (năm 53 TCN). Trong cuộc nội chiến La Mã của những người giải phóng vào thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Parthia đã tích cực hỗ trợ Brutus và Cassius, xâm lược Syria, và giành được những vùng lãnh thổ ở vùng Cận Đông. Tuy nhiên, với việc chấm dứt cuộc nội chiến lần thứ hai của người La Mã đã mang đến một sự hồi sinh cho sức mạnh của người La Mã ở Tây Á.

Vào năm 113 , Hoàng đế La Mã Trajan đã tiến hành cuộc chinh phục phía đông và việc đánh bại người Parthia đã trở thành một ưu tiên chiến lược, ông đã thành công trong việc tàn phá kinh đô của Parthia, Ctesiphon, rồi đưa Parthamaspates của Parthia lên làm vị vua bù nhìn. Vị vua kế vị của Trajan, Hadrian sau đó đã đảo ngược chính sách của người tiền nhiệm, và có ý định thiết lập lại Euphrates như là giới hạn cho sự kiểm soát của La Mã. Tuy nhiên, trong thế kỷ thứ 2, chiến tranh trên khắp Armenia đã nổ ra một lần nữa vào năm 161, khi Vologases IV đánh bại người La Mã ở đó. Một cuộc phản công của người La Mã dưới sự chỉ huy của Statius Priscus đã đánh bại người Parthia ở Armenia và đưa một người tranh đoạt ngôi vị được họ ủng hộ ngồi lên ngai vàng Armenia, cùng với đó một cuộc xâm lược khác vào vùng Lưỡng Hà lên đến đỉnh điểm trong năm 165 với việc cướp phá Ctesiphon.

Trong năm 195, Hoàng đế Septimius Severus đã tiến hành một cuộc xâm lược vào vùng Lưỡng Hà, người La Mã đã chiếm đóng Seleucia, Babylon, và sau đó bị cướp phá Ctesiphon một lần nữa vào năm 197. Parthia cuối cùng đã sụp đổ nhưng không phải do bàn tay của người La Mã, mà lại dưới tay Ardashir I của nhà Sassanid, ông ta đã tiến vào thành Ctesiphon trong năm 226. Dưới thời Ardashir và những vị vua kế vị ông, cuộc chiến tranh Ba Tư-La Mã tiếp tục diễn ra giữa đế quốc Sassanid và Roma.

Tham vọng phía Tây của Parthia

Sau khi giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh Seleucid-Parthia và sáp nhập một phần lớn đất đai của đế chế Seleukos, người Parthia bắt đầu tập trung vào việc bành trướng lãnh thổ về phía Tây. Những hành động bành trướng của người Parthia ở phía tây bắt đầu dưới triều đại của Mithridates I, và trong suốt triều đại của ông, nhà Arsaces đã thành công trong việc mở rộng quyền lực của họ vào Armenia và Lưỡng Hà. Đây là khởi đầu của một "vai trò quốc tế" cho đế quốc Parthia, một giai đoạn mà cũng đòi hỏi sự giao thiệp với Roma. Mithridates II đã tiến hành đàm phán với Sulla nhằm thiết lập một liên minh La Mã-Parthia nhưng không thành công (khoảng năm 105 TCN).

Sau năm 90 TCN, sức mạnh của Parthia đã bị suy giảm bởi những xung đột triều đại, trong khi cùng lúc đó, quyền lực của người La Mã ở Anatolia đã sụp đổ. Quan hệ La Mã-Parthia sau đó đã được khôi phục lại khi Lucullus xâm chiếm miền Nam Armenia và đánh bại Tigranes vào năm 69 TCN, tuy nhiên, một lần nữa không có thỏa thuận rõ ràng nào được thực hiện.

Cộng hòa La Mã và Parthia

Khi Pompey nắm quyền phụ trách cuộc chiến tranh ở phía Đông, ông mở lại cuộc đàm phán với Phraates III, họ đã đi đến một thỏa thuận và quân đội của cả La Mã và Parthia đã xâm lược Armenia vào năm 66/65 TCN, nhưng ngay sau đó đã một tranh chấp phát sinh về biên giới sông Euphrates giữa Roma và Parthia. Pompey từ chối công nhận danh hiệu "Vua của các vị vua" cho Phraates, và đưa ra sự phân xử về tranh chấp giữa Tigranes và vua Parthia đối với Corduene. Cuối cùng, Phraates đã khẳng định lại sự thống trị của ông ta đối với vùng Lưỡng Hà, trừ các vùng phía tây của Osroene, mà đã trở thành một nước chư hầu của La Mã.

Vào năm 53 TCN, Crassus đã chỉ huy một cuộc xâm lược vào vùng Lưỡng Hà, với kết quả thảm khốc trong trận Carrhae, đây là thất bại tồi tệ nhất đối với người La Mã kể từ sau trận Cannae, Crassus và con trai ông, Publius, đã bị đánh bại và bị giết bởi một đội quân Parthia dưới quyền tướng Surena. Phần lớn lực lượng của ông giết hoặc bị bắt làm tù binh, trong số 42.000 người, khoảng một nửa đã tử trận, một phần trong số đó đã rút về được Syria, và phần còn lại trở thành tù binh chiến tranh Một năm sau, người Parthia đã phát động các cuộc đột kích vào Syria, và trong năm 51 TCN, thái tử Pacorus cùng tướng Osaces đã tiến hành một cuộc xâm lược lớn, nhưng quân đội của họ lại bị rơi vào một cuộc phục kích của người La Mã dưới quyền Cassius gần Antigonea và Osaces đã bị giết chết.

Trong cuộc nội chiến của Caesar, người Parthia đã không có hành động gì, nhưng họ vẫn duy trì quan hệ với Pompey. Sau khi Pompey thất bại và qua đời, một lực lượng dưới quyền Pacorus đã tới trợ giúp cho viên tướng của phe Pompey, Caecilius Bassus, người đã bị quân đội phe Caesar bao vây tại thung lũng Apamea. Với việc cuộc nội chiến kết thúc, Julius Caesar đã xây dựng kế hoạch cho một chiến dịch chống lại Parthia, nhưng vụ ám sát ông đã ngăn chặn cuộc chiến tranh. Trong cuộc nội chiến của những người giải phóng tiếp theo sau đó, người Parthia tích cực hỗ trợ Brutus và Cassius, và phái một đạo quân tới chiến đấu cho họ trong trận Philipii vào năm 42 TCN. nhỏ|trái|Parthia, its subkingdoms, and neighbors in 1 AD.

Sau thất bại này, người Parthia dưới sự chỉ huy của Pacorus lại tiếp tục xâm chiếm lãnh thổ của La Mã trong năm 40 TCN cùng chung với Quintus Labienus, một vị tướng La Mã trước kia ủng hộ Brutus và Cassius. Họ nhanh chóng tràn qua Syria, và đánh bại quân đội La Mã trong tỉnh, tất cả các thành phố bờ biển với ngoại lệ là thành Tyre đã đón nhận người Parthia. Pacorus sau đó tiến vào xứ Judea của nhà Hasmonea và lật đổ chính quyền chư hầu La Mã của vua Hyrcanus II rồi đưa người cháu trai của ông ta là Antigonus (40-37 TCN) lên thay thế.

Trong khi đó Marcus Antonius đã phái Ventidius tới chống lại Labienus vốn đang tấn công Anatolia. Labienius nhanh chóng đánh đuổi trở lại Syria bởi quân đội La Mã, và mặc dù các đồng minh Parthia của ông ta đã đến hỗ trợ, ông ta đã bị đánh bại, bị bắt làm tù binh và sau đó bị hành quyết. Sau khi phải đón nhận thêm một thất bại khác gần Cổng Syria, người Parthia rút khỏi Syria. Họ chỉ quay trở lại vào năm 38 TCN, nhưng đã bị Ventidius đánh bại hoàn toàn và bản thân Pacorus thì cũng tử trận. Ở Judea, Antigonus đã bị Herod lật đổ với sự giúp đỡ của người La Mã trong năm 37 TCN.

Sự kiểm soát của người La Mã đối với Syria và Judea đã được phục hồi, Marcus Antonius sau đó đưa một đội quân đông đảo tiến vào Azerbaijan, nhưng đoàn thiết bị công thành của ông và đội quân hộ tống của nó đã bị cô lập và bị xóa sổ, trong khi các đồng minh Armenia của ông ta lại đào ngũ. Không đạt được tiến triển nào trong việc chống lại các vị trí của người Parthia, người La Mã đã rút lui với tổn thất nặng nề. Trong năm 33 TCN, Antonius một lần nữa có mặt ở Armenia và thiết lập một liên minh với vua Media chống lại với cả Octavius và người Parthia, nhưng những mối bận tâm khác buộc ông ta phải rút, để lại toàn bộ khu vực nằm dưới sự kiểm soát của Parthia.

Đế quốc La Mã và Parthia

Những cuộc chiến tranh bất phân thắng bại

Dưới sự đe dọa của một cuộc chiến tranh sắp xảy ra giữa hai cường quốc, Gaius Caesar và Phraataces đã tạo ra một phác thảo thỏa hiệp giữa hai cường quốc trong năm 1 SCN. Theo thỏa thuận, Parthia tiến hành rút quân khỏi Armenia, và chấp nhận sự bảo hộ trên thực tế của La Mã đối với toàn bộ quốc gia này. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quyền kiểm soát của La Mã-Ba Tư và ảnh hưởng ở Armenia tiếp tục suy giảm trong vài thập kỷ tới.

Với việc vua Parthia, Artabanus III, quyết định đưa người con trai mình, Arsaces, ngồi lên ngai vàng Armenia bỏ trống đã gây ra một cuộc chiến tranh với Roma vào năm 36 SCN. Artabanus III sau đó đã đạt được một đồng thuận chung với viên tướng La Mã, Lucius Vitellius, về việc từ bỏ tuyên bố của Parthia đối với phạm vi ảnh hưởng của họ ở Armenia. Một cuộc khủng hoảng mới đã nổ ra vào năm 58, khi người La Mã xâm chiếm Armenia sau khi vua Parthia Vologases I đưa người em trai Tiridates ngồi lên ngai vàng Armenia. Quân đội La Mã dưới quyền Corbulo đã lật đổ Tiridates và thay thế ông ta bằng một hoàng tử Cappadocia. Điều này buộc người Parthia phải tiến hành đáp trả và một loạt các chiến dịch bất phân thắng bại xảy ra ở Armenia ngay sau đó. Cuộc chiến tranh đã kết thúc vào năm 63, khi người La Mã đồng ý cho phép Tiridates và con cháu ông ta cai trị Armenia với điều kiện là họ được các hoàng đế La Mã ban cho vương quyền.

Chiến tranh Parthia của Trajan

Một loạt các cuộc chiến tranh mới đã bắt đầu vào thế kỷ thứ 2, trong thời gian đó người La Mã luôn giữ thế thượng phong trước Parthia. Trong năm 113, hoàng đế La Mã Trajan quyết định rằng đây là thời điểm chín muồi để giải quyết "vấn đề phía Đông" một lần và mãi mãi bằng cách đánh bại hoàn toàn Parthia và sáp nhập Armenia, cuộc chinh phục của ông đánh dấu một sự thay đổi có chủ ý trong chính sách của La Mã đối với Parthia, và một sự thay đổi trọng tâm trong "chiến lược" của đế quốc Năm 115, hoàng đế La Mã chiếm đóng miền bắc Lưỡng Hà và cũng sáp nhập nó vào Roma, cuộc chinh phục vùng đất này được coi là cần thiết. Tiếp đó người La Mã đánh chiếm kinh đô của Parthia, Ctesiphon, trước khi dong thuyền xuống hạ lưu đến Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, trong năm này cũng đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa ở Palestine, Syria và phía bắc Lưỡng Hà, trong khi một cuộc khởi nghĩa lớn khác của người Do Thái nổ ra trong lãnh thổ La Mã, khiến cho nguồn lực của quân đội La Mã bị trải rộng ra một cách nghiêm trong. Trajan còn thất bại trong việc đánh chiếm Hatra, mà tránh được thất bại hoàn cho người Parthia. Lực lượng Parthia cũng đã tấn công các vị trí quan trọng và các đơn vị đồn trú La Mã tại Seleucia, Nisibis và Edessa đã bị cư dân địa phương đánh đuổi. Trajan sau đó đánh bại được quân khởi nghĩa ở vùng Lưỡng Hà, và đưa hoàng tử Parthia Parthamaspates lên làm vua chư hầu rồi rút về Syria. Trajan qua đời vào năm 117, trước khi ông có thể tiếp tục cuộc chiến tranh.

Chính sách của Hadrianus và những cuộc chiến tranh bành trướng khác

Người kế vị của Trajan, Hadrianus, đã kịp thời đảo ngược chính sách của người tiền nhiệm. Ông đã quyết định rằng mối quan tâm của Roma là thiết lập lại Euphrates như là giới hạn đối với sự kiểm soát trực tiếp của nó, và sẵn sàng trở lại status quo ante, với việc từ bỏ lãnh thổ của Armenia, Lưỡng Hà, và Adiabene, trao lại cho các vị vua trước đây của chúng cùng các vị vua chư hầu. Một lần nữa, ít nhất là trong nửa thế kỷ, Roma tránh hoạt động can thiệp vào phía đông của sông Euphrates.

Vào năm 195, hoàng đế Septimius Severus bắt đầu một cuộc xâm lược mới vào vùng Lưỡng Hà, và chiếm đóng Seleucia, Babylon, rồi sau đó cướp phá Ctesiphon một lần nữa vào năm 197. Các cuộc chiến tranh sau đó đã dẫn đến việc người La Mã giành lại khu vực phía bắc Lưỡng Hà, tới tận khu vực xung quanh Nisibis và Singara. Một cuộc chiến cuối cùng chống lại người Parthia đã được hoàng đế Caracalla tiến hành, ông đã cướp phá Arbela vào năm 216, nhưng sau khi ông bị ám sát, người kế nhiệm ông là Macrinus đã bị đánh bại bởi người Parthia gần Nisibis và đã phải bồi thường chiến phí.

Sự trỗi dậy của nhà Sassanid

Đế quốc Parthia cuối cùng đã bị Ardashir I lật đổ khi ông tiến vào Ctesiphon trong năm 226. Nhà Sassanid đã tập trung quyền lực về trung ương nhiều hơn so với các triều đại Parthia. Cho đến khi nhà Sassanid lên nắm quyền, người La Mã vẫn chủ yếu là những kẻ xâm lược. Tuy nhiên, nhà Sassanid, vốn là người Ba Tư, đã quyết định xâm chiếm lại toàn bộ đất đai mà triều đại Achaemenid đã từng nắm giữ mà bây giờ đã bị mất. Chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành của họ khiến cho họ trở thành kẻ thù tích cực hơn đối với người La Mã hơn người Parthia đã từng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**La Mã cổ đại** là nền văn
### Thời kì Nguyên thủ (27 TCN-235 CN) Giữa các triều đại của hoàng đế Augustus và Traianus, Đế quốc La Mã đã giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn ở cả phía Đông
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Các cuộc chiến tranh Marcomanni** (thường được người La Mã biết đến với tên gọi "Chiến tranh với người German và Sarmatia" - _Bellum Germanicum et Sarmaticum_) là một loạt các cuộc chiến tranh kéo
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Chiến tranh Kitos** hay **Chiến tranh Do Thái-La Mã lần thứ hai** (115–117; Tiếng Do Thái: _mered ha'galuyot_ or _mered ha'tfutzot_ [מרד התפוצות] (_Cuộc nổi dậy của người Do Thái_) là một trong những cuộc
**Syria** là một trong những tỉnh La Mã đầu tiên, nó được Pompeius sáp nhập vào đế quốc La Mã trong năm 64 TCN, như một hệ quả của cuộc viễn chinh quân sự ở
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
­ **Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
Bản đồ đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại [[Hadrian, cho thấy **Legio I Italica**, đóng quân tại Novae (Svishtov, Bulgaria), ở tỉnh Hạ Moesia thuộc khu vực sông Danube, từ
**Macrinus** (; 165 – 218), là Hoàng đế La Mã từ năm 217 đến 218. Macrinus là người gốc Berber (người dân bản địa Bắc Phi) và là một thành viên thuộc tầng lớp kị
**Titus Flavius Vespasianus**, thường được gọi là **Titus** (; ngày 30 tháng 12 năm 39 - 13 tháng 9 năm 81), là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã. Ông trị quốc trong
**Legio X Fretensis** (**quân đoàn thứ mười của eo biển**) là một quân đoàn La Mã được Augustus Caesar thành lập vào năm 41/40 trước Công nguyên để chiến đấu trong thời kì nội chiến
**Italia** (tên tiếng Latinh và tiếng Ý của Bán đảo Ý) là quê hương của người La Mã và thủ phủ của Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã trong thời cổ đại
**Trận Carrhae** xảy ra gần thị trấn Carrhae năm 53 TCN, là một chiến thắng quyết định cho Spahbod (tướng) Surena của người Parthava trước quân xâm lược La Mã dưới sự chỉ huy của
**Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus** (15 tháng 12 năm 37 – 9 tháng 6 năm 68), tên khai sinh là **Lucius Domitius Ahenobarbus**, còn được gọi là **Nero Claudius Caesar Germanicus**, là vị Hoàng đế
**Vardanes I của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 40-45SCN. Ông kế vị người cha Artabanus II của ông, nhưng đã phải liên tục chiến đấu chống lại Gotarzes II, một đối
**Vonones I của Parthia** ( _Onōnēs_ trên tiền xu của ông) cai trị đế quốc Parthia từ khoảng năm 8 tới 12 CN. Ông là con trai cả của vua Phraates IV của Parthia (trị
**Arsaces II** (; ; trong tiếng Parthia:𐭀𐭓𐭔𐭊 _Aršak_, _Ašk_), là vua của vương quốc Parthia, thuộc về triều đại Arsaces, trị vì từ giữa 211 TCN tới 191 TCN. ## Name __ là cách viết
thumb|Tiền xu của Sanatruces II **Sanatruces II của Parthia**, con trai của vua Mithridates IV, là một người tranh giành ngai vàng của đế quốc Parthia dưới triều đại của người chú của ông là
**Mithridates IV của Parthia** cai trị miền tây của đế quốc Parthia từ năm 129 đến 140. Ông là em trai của Osroes I của Parthia (109 - 129). Trong cuộc xâm lược Lưỡng Hà
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Chiến thuật kỵ binh** là một loại chiến thuật quân sự của lực lượng kỵ binh với tính năng cơ động cao, tác chiến nhanh. Đây là lực lượng cơ động trong chiến tranh trên
**** Đây là **danh sách các chiến thuật quân sự**. Sự sắp xếp theo hệ thống chỉ có tính tương đối. Danh sách liệt kê chủ yếu theo thứ tự của bảng chữ cái. Danh
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus** hay còn gọi là **Trajan** (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98
**Marcus Antonius **(trong tiếng Latin: M·ANTONIVS·M·F·M·N) (khoảng 14 tháng 1 năm 83 TCN - 1 tháng 8 năm 30 TCN) được biết đến trong tiếng Anh là **Mark Antony**, là một chính trị gia và
**_Total War: Rome II_** (tạm dịch: _Chiến tranh tổng lực: La Mã 2_) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt sắp tới do
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Tigranes Đại đế ** (tiếng Armenia: Տիգրան Մեծ, tên Hy Lạp: Τιγράνης ο Μέγας, tiếng Nga: Тигран Велики) (cai trị 95-55 TCN), còn gọi là **Tigranes II** (đôi khi **Tigranes I**), là vua của Armenia
**Augustus** (; ; sinh 23 tháng 9 năm 63 TCN — 19 tháng 8 năm 14, tên khai sinh là **Gaius Octavius** và được biết đến với cái tên **Gaius Julius Caesar Octavianus** giai đoạn
nhỏ|phải|The Savaria Legio XV Apollinaris (Szombathely, Hungary) **Legio Quinta decima Apollinaris** (quân đoàn thứ mười lăm Apollonia) là một quân đoàn La Mã. Nó đã thành lập bởi Octavian trong năm 41/40 trước Công nguyên.
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Lucius Cornelius Sulla Felix** (khoảng 138 TCN - 78 TCN), gọi ngắn gọn là **Sulla** hay **Sylla** (theo tiếng Pháp), là một vị tướng và chính khách La Mã. Ông đã có sự khác biệt
**Trận Nisibis** xảy ra vào mùa hè năm 217 giữa quân đội của đế quốc La Mã dưới sự chỉ huy của hoàng đế Macrinus mới lên ngôi và quân đội Parthia của vua Artabanus
**Legio quarta decima Gemina** (**Quân đoàn đôi thứ mười bốn**) là một quân đoàn của đế quốc La Mã, nó được Julius Caesar thành lập vào năm 57 trước Công nguyên. Tên riêng _Gemina_ của
**Caracalla** (; 4 tháng 4 năm 188 – 8 tháng 4, 217) là Hoàng đế La Mã gốc Berber từ năm 198 đến 217. Là con trai cả của Septimius Severus, ông trị vì cùng
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Praetorians** (tạm dịch: _Vệ binh hoàng gia_) là trò chơi máy tính chiến thuật thời gian thực do hãng Pyro Studios phát triển và Eidos Interactive phát hành vào ngày 28 tháng 2 năm 2003