✨Phraates IV của Parthia

Phraates IV của Parthia

nhỏ|Phraates IV. Vua Phraates IV của Parthia, con trai của vua Orodes II, trị vì đế chế Parthia từ năm 37- năm 2 TCN. Ông được phong làm thái tử kế vị vào năm 37 trước Công nguyên, sau khi anh trai của ông, Pacorus I tử trận. Ông đã sớm sát hại cha mình và tất cả ba mươi anh em.

Phraates bị tấn công trong năm 36 TCN bởi vị tướng La Mã Marcus Antonius, người hành quân qua Armenia tiến vào Atropatene, và đã bị đánh bại và bị mất phần lớn quân đội của ông ta. Antonius tin rằng mình bị phản bội bởi Artavasdes, vua của Armenia, xâm chiếm vương quốc của ông ta trong năm 34 trước Công nguyên và bắt ông ta tù nhân, và ký kết một hiệp ước với một Artavasdes, vua của Media Atropatene.

Nhưng khi cuộc chiến với Octaviaus nổ ra, Antonius không thể duy trì cuộc chinh phục của mình; Phraates khôi phục lại Media Atropatene và đánh đuổi Artaxias, con trai của Artavasdes, quay trở lại Armenia. Nhưng sự độc ác của Phraates đã khuấy động sự phẫn nộ của các thần dân của mình, họ đã tôn Tiridates II lên ngôi vào năm 32 TCN. Phraates sau đó đã được khôi phục lại ngai vàng nhờ vào dân Scythia, và Tiridates chạy trốn đến Syria. Người La Mã hy vọng rằng Augustus sẽ trả thù cho thất bại của vị tướng La Mã Marcus Licinius Crassus trước người Parthia, nhưng ông hài lòng với một hiệp ước, theo đó Phraates trao trả các tù nhân và những con đại bàng, vương quốc Armenia cũng đã được công nhận như một chư hầu của La Mã.

Ngay sau đó Phraates, người mà coi kẻ thù lớn nhất chính là gia đình riêng của mình, đã gửi năm con trai của ông đến làm con tin ở chỗ Augustus, do đó thừa nhận sự phụ thuộc của mình vào Rome (con tin bao gồm Tiridates III, người mà La Mã sau đó đã cố gắng để đưa lên làm một vị vua chư hầu vào năm 35 CN). Kế hoạch này được chấp nhận bởi lời khuyên của một phụ nữ Ý, vốn là một món quà của Caesar, "Thea Muse" người được ông vô cùng sủng ái, con trai của bà Phraates V, thường được gọi là Phraataces, đã được ông phong làm người kế vị. Năm 2 TCN, ông đã bị ám sát bởi Musa và con trai bà.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Phraates IV. **Vua Phraates IV của Parthia**, con trai của vua Orodes II, trị vì đế chế Parthia từ năm 37- năm 2 TCN. Ông được phong làm thái tử kế vị vào năm 37
**Musa** là hoàng hậu của đế quốc Parthia từ khoảng năm 2 TCN đến năm 4 CN. Bà được gọi là **Thermusa** bởi Josephus và còn được gọi là **Thea Urania (Astarte)**. Bà vốn là
**Vonones I của Parthia** ( _Onōnēs_ trên tiền xu của ông) cai trị đế quốc Parthia từ khoảng năm 8 tới 12 CN. Ông là con trai cả của vua Phraates IV của Parthia (trị
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
nhỏ|300x300px|Tiền xu mang hình Orodes II **Orodes II của Parthia** (còn gọi là **Hyrodes Anaridius**) là vua của Đế quốc Parthia từ năm 57-38 trước Công nguyên. Orodes là một con trai của Phraates III,
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
thumb|right|Tiền xu của Phraates V, ở phía bên trái, và [[Musa của Parthia|Musa phía bên phải.]] **Phraates V** (tiếng Ba Tư: فرهاد پنجم), còn được biết đến với tên **Phraataces nhỏ bé** (tiếng Hy Lạp
**Tiridates II của Parthia** được người Parthia dựng lên để chống lại Phraates IV vào khoảng năm 32 TCN, nhưng ông đã bị Phraates đánh đuổi sau khi ông ta quay trở về cùng với
**Tiridates III của Parthia** (tiếng Ba Tư: تيرداد سوم), cai trị đế chế Parthia một thời gian ngắn từ năm 35-36. Ông là cháu nội của vua Phraates IV. Ông đã được gửi đến Rome
**Sanatruces của Parthia** (**Sinatruces** hoặc **Sanatruk**, khoảng năm 157 TCN - 70 TCN) trị vì đế chế Parthia từ khoảng năm 77 đến khoảng năm 70 trước Công nguyên. Ông là một thành viên của
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Alexandros Helios** (; cuối năm 40 TCN – không rõ, nhưng có thể trong khoảng năm 29 và 25 TCN) là một vị hoàng tử nhà Ptolemaios và là người con trai cả của nữ
**Julia Urania**(Bằng Bằng thế kỷ I) là Nữ hoàng của Mauretania. Cô kết hôn với vua người Berber Ptolemy của Mauritius, là con trai của cựu vương quốc Mauretanian Juba II và Cleopatra Selene II.
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ