✨Quân đội Seleukos

Quân đội Seleukos

Quân đội Seleukos là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế.

Giống như chính các quân đội Hy Lạp khác, quân đội Seleukos đã chiến đấu chủ yếu theo phong cách Hy Lạp- Macedonia, với bộ phận chính của nó là đội hình phalanx. Đội hình phalanx lớn và dày đặc, hình thành bởi những người lính trang bị khiên nhỏ và một cây giáo dài được gọi là sarissa. Cách thức chiến đấu của lực lượng phalanx đã được phát triển trong triều đại của Philippos II của Macedonia và con trai ông Alexandros Đại đế. Cùng với phalanx, quân Seleukos sử dụng một lượng lớn quân đội địa phương và lính đánh thuê để bổ sung lực lượng Hy Lạp- Macedonia của họ, bị hạn chế do khoảng cách từ quê hương Macedonia của những vị vua Seleukos.

Nhân lực

Khoảng cách giữa Hy Lạp và Macedonia gây ra một khó khăn cho hệ thống quân đội Seleukos vì nó đã chủ yếu dựa trên việc tuyển mộ người Hy Lạp, Macedonia mà vốn giữ một vai trò then chốt của quân đội. Để tăng thêm dân cư gốc Hy Lạp- Macedonia trong vương quốc, những vị vua Seleukos đã tạo ra các khu định cư quân sự. Có hai giai đoạn chính trong việc thành lập các khu định cư, trước hết là dưới thời Seleukos I và Antiochos I và sau đó dưới thời Antiochos IV Những người lính định cư được ban cho đất đai, với "kích thước thay đổi theo chức vụ và binh chủng phục vụ" . Không giống như những người định cư quân sự của nhà Ptolemaios đã được biết đến với tên gọi Kleruchoi, những người định cư của nhà Seleukos được gọi là Katoikoi. Những người định cư sẽ duy trì đất đai như là sở hữu mình và đổi lại họ sẽ phục vụ trong quân đội Seleukos khi được gọi. Phần lớn các khu định cư đã tập trung ở Lydia, miền bắc Syria, thượng Euphrates và Media. Người Hy Lạp và Macedonia chủ yếu ở Lydia, Phrygia và Syria. Ví dụ Antiochos III đã đưa người Hy Lạp từ Euboea, Crete và Aetolia và định cư họ ở Antioch . Những người định cư sẽ được sử dụng để hình thành nên đội hình phalanx Seleukos và các đơn vị kỵ binh, với những người lính được lựa chọn vào lực lượng cận vệ của vương quốc. Phần còn lại của quân đội Seleukos sẽ bao gồm một số lượng lớn quân đội địa phương và lính đánh thuê. Những binh sĩ này sẽ phục vụ như là đội quân trợ chiến.

Bộ binh

Argyraspides

Lực lượng bộ binh tinh nhuệ của quân đội Seleukos là " những chiến binh khiên bạc", hoặc Argyraspides. Họ là một đơn vị cận vệ thường được hình thành từ những người con trai của người định cư quân sự Họ được trang bị theo phong cách Macedonia với sarissa và chiến đấu trong đội hình phalanx, giống như các đội quân Hy Lạp cùng thời điểm. Argyraspides đã có thể là một đội quân khoảng 10.000 người người đã được chọn từ khắp vương quốc để phục vụ trong đơn vị này . Khắp vương quốc có thể có nghĩa là "khu vực như Syria và Lưỡng Hà, đó là những hạt nhân của Vương quốc Seleukos, có một mật độ lớn của "những người lính Hy Lạp- Macedonia.

Bộ binh theo phong cách La Tinh

Năm 166 trước Công nguyên ở Cuộc diễu binh Daphne dưới thời Antiochos IV, lực lượng Argyraspides chỉ nhìn thấy còn5.000 người. Tuy nhiên 5.000 quân vũ trang theo phong cách La Mã có mặt Nó là có thể là 5.000 người bị mất của Argyraspides và là 5000 lính "La Mã "diễu hành cùng với họ. Việc tập luyện của một bộ phận của lực lượng cận vệ hoàng gia theo phương pháp "La Mã" là có thể là do sự xuống dốc của một số yếu tố. Thứ nhất Antiochos IV đã dành một phần thời trai trẻ của ông tại Rome và là một sự ngưỡng mộ quá mức quyền lực và phương pháp Rome..Thứ hai là cuộc chiến tranh tương lai mà vương quốc Seleukos có thể chiến đấu có lẽ sẽ là ở các tỉnh miền đông chống lại kẻ thù di động và các khu vực rộng lớn của đất nước. Thực tế đội quân La Tinh này đã xuất hiện trong cuộc giao tranh với những người Maccabees tại trận Beth Zechariah trong 162 năm TCN. Thứ ba, sự thất bại của nhà Antigonos trong trận Pydna năm 168 trước Công nguyên là một cú sốc văn hóa lớn, thể hiện thất thế hoàn toàn của hệ thống quân sự Macedonia trước các quân đoàn La Mã.

Dân quân

Đã có một lực lượng dân quân, ít nhất là ở Syria. Họ đến từ các thành phố Hy Lạp, những người đã không có vai trò đặc biệt trong quân đội chính quy. Chúng ta cũng không thấy lực lượng dân quân tham gia vào các chiến dịch lớn trước khi vương quốc bắt đầu suy yếu trong nửa sau của thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Vì khi đó, nhiều khu định cư quân sự quan trọng đã bị Pergamon và Parthia chiếm mất. Năm 148 TCN trong trận Azotos chống lại những người Maccabees, quân đội Seleukos được gọi là "Sức mạnh của những thành phố", có thể là do tỷ lệ cao của lực lượng dân quân huy động từ các thành phố ven biển . Công dân của thành Antioch đóng một vai trò quan trọng trong việc lật đổ vua Demetrios II. Demetrios, sau khi lên ngôi đã quyết định giải tán phần lớn quân đội chính quy và giảm bớt lương một số lượng lớn . Bộ phận chính trong quân đội của Demetrios dựa vào những người Hy Lạp của ông đặc biệt là người Crete, những lính đánh thuê đã được biết đến như là "Những kẻ Crete bạo ngược" . Không lâu sau trận Azotos, đa số lực lượng dân dân quân đã bị xóa sổ trong thất bại tai hại của Antiochos VII diễn ra trong cuộc chiến tranh với người Parthia vào năm 129 TCN . Một số đội ngũ dân tộc, dù họ là chư hầu hay lính đánh thuê đã được sử dụng đáng kể trong những tình huống nhất định. Đối với lính đánh thuê ví dụ người Thracia cùng với người Mysian, Cilicia, Lycia và quân đội người Mysia đã rất hiệu quả trong chiến đấu tại các khu vực địa hình gồ ghề và miền núi. Ví dụ như quân chư hầu từ khu vực miền núi của đế quốc đã được sử dụng bởi Antiochos III kết hợp với Thorakitai trong cuộc tấn công ồ ạt của ông ở dãy Elburz trong năm 210 TCN . Quân lính Ba Tư và Iran nhiều khả năng đã là một đội quân chuyên nghiệp cao hơn so với hầu hết các đội ngũ khác khi họ được xem như đội quân đồn trú trên khắp đế quốc . Sự vắng mặt của quân phụ trợ trong quân đội của Antiochos IV có thể đã góp phần vào việc củng cố sức mạnh của nó. Thay thế cho sự mất mát của những đội quân chư hầu này là sự bổ sung bởi lính đánh thuê, những người có nhiều kinh nghiệm và được đào tạo tốt hơn. Những lính đánh thuê Thracia và Galatia tại Daphne có thể đã được sử dụng tốt trong các chiến dịch tại các địa hình đồi núi gồ ghề. Ví dụ như vũ khí và trang bị của quân Thracia cho phép cá nhân người lính di chuyển dễ dàng hơn và hành động tự do hơn trong cận chiến hơn là đội hình phalangite không thể tham gia vào .

Kị binh

Không giống như các thế lực hùng mạnh khác ở phía tây, giống như người La Mã và các quốc gia Hy Lạp khác, nơi mà bộ binh chiếm ưu thế trên chiến trường, trong "không gian rộng lớn ở phía đông, những nền văn hóa sử dụng ngựa có ảnh hưởng nhiều hơn" Tốc độ và tính cơ động là chìa khóa, đặc biệt là khi đối phó với kẻ thù giống như người Parthia và Hy Lạp-Bactria. Hình thái chiến tranh của người Parthia dựa trên những kị sĩ mặc giáp nặng, Cataphract, và cung thủ cưỡi ngựa đã được sử dụng trong chiến thuật vừa đánh vừa chạy. Phong cách chiến tranh dùng ngựa ở phía đông sẽ có một tác động sâu rộng trong triều đại của Antiochos III khi ông trang bị kỵ binh nặng của mình theo kiểu của người Parthia.

Antiochos III là một chỉ huy kỵ binh xuất sắc, trong cuộc tấn công của ông vào Tapuria năm 208 TCN theo như mô tả của Polybius

Tại Magnesia, sự bất chấp của Antiochus cho phalanx và cuộc đột kích sai chỗ của kỵ binh đã dẫn đến thất bại của ông ta. Kỵ binh Seleukos, ngoài Cataphract, có thể được phân chia thành một số hạng mục. Thứ nhất đó là kỵ binh nặng, trong đó có Kataphraktoi (bọc giáp) và Aphraktoi (không bọc giáp). Aphraktoi được chia thành 2 nhóm, kị binh mang thương và quân mang vũ khí phóng. Kị binh mang thương, những người thực hiện công việc của kỵ binh nặng trước quân Cataphract, đã được biết đến bằng tên rất nhiều, ví dụ như dorataphoroi, sarissaphoroi, kontophoroi, xystophoroi và lonchophoroi. Xystophoroi và lonchophoroi đã được đề cập cụ thể bởi Titus Flamininus trong cuộc thảo luận với người Achaean

Agema, Hetairoi và Nisaioi

Cùng với các đơn vị bộ binh cận vệ, đã có hai trung đoàn kỵ binh cận vệ, mỗi đội quân gồm 1000 người .. Đây là những Agema ('cận vệ') và Hetairoi ('chiến hữu'). Hetairoi được tuyển chọn từ các thế hệ trẻ của những người định cư quân sự và chiến đấu như một đơn vị kỵ binh bảo vệ thường trực của quân đội, phục vụ trong hòa bình và trong chiến tranh . Lực lượng Agema bao gồm người Media, những người được lựa chọn, với một hỗn hợp của kỵ binh của nhiều chủng tộc từ cùng một phần của thế giới. Cả hai quân đoàn kỵ binh có thể hộ tống nhà vua vào trận chiến, hoặc cả hai có thể được tổ chức lại với nhau thành một đơn vị với 2.000 người. Một trung đoàn kị binh khác được trang bị tương tự như cataphracts, là kỵ binh người Nisia (Nisaioi) bao gồm cả người Iran.

Epilektoi

Tại cuộc diễu binh Daphne cũng có một trung đoàn quân tinh nhuệ, được biết đến là Epilektoi, kị binh, với quân số 1000 người. Lực lượng Epilektoi rất có thể tuyển chọn từ thành phố Larissa, được thành lập bởi các thực dân từ Larissa trên vùng đất liền của Hy Lạp. Sau khi mất Media-vùng đất tuyển quân chính cho lực lượng Agema-về tay người Parthia, Epilektoi đã được trao danh hiệu và vai trò của Agema bởi Alexander Balas.

Kataphraktoi

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quân đội Seleukos **là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế. Giống như chính các quân đội Hy Lạp
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Quân đội Macedonia nhà Antigonos ** là quân đội của Macedonia trong kỳ khi nó được cai trị bởi triều đại Antigonos từ năm 276 TCN đến 168 TCN. Nó được xem là một trong
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
**Seleukos II Kallinikos** hoặc _Pogon_ (Tiếng Hy Lạp: **Σέλευκος Β 'Καλλίνικος**, có ý nghĩa là _người chiến thắng đẹp_ và "Bearded", tương ứng như vậy) là một vị vua Hy Lạp hóa của vương quốc
**Trận Panium** là một trận đánh nổ ra vào năm 198 TCN giữa Vương quốc Seleukos và Vương quốc Ptolemaios. Đây là một trận chiến mang tính chất quyết định trong Chiến tranh Syria lần
Antiochos V, dòng chữ Hy Lạp ghi _ΒΑΣΙΛΕΩΣ ANTIOXOY_ (_"của vua Antiokhos_") **Antiochos V Eupator** (tiếng Hy Lạp: Αντίοχος Ε 'Ευπάτωρ, khoảng 173 TCN – 162 TCN), là vua người Hy Lạp của vương quốc
nhỏ|phải|Seleukos VI Epiphanes **Seleukos VI Epiphanes** là vua của vương quốc Seleukos thời kì Hy Lạp hóa; Ông là con trai cả của vua Antiochos VIII Grypos. Vào năm 96 TCN, Seleukos đánh bại chú
**Trận Thermopylae** đã diễn ra vào năm 191 Trước Công Nguyên, giữa Quân đội La Mã do quan Tổng tài Manius Acilius Glabrio và Quân đội Seleukos do vua Antiochos III Đại đế thân chinh
Lực lượng **Argyraspides** (trong tiếng Hy Lạp: Ἀργυράσπιδες "Những chiếc khiên bạc"), là một bộ phận thuộc quân đội Macedonia của Alexander Đại đế, họ đã được gọi như vậy vì họ mang những tấm
**Trận Magnesia** nổ ra năm 190 TCN gần Magnesia ad Sipylum, trên vùng đất của Lydia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) giữa người La Mã do chấp chính quan Lucius Cornelius Scipio và người
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Trận Ipsus** là trận đánh xảy ra giữa các Diadochi (những người thừa kế của Alexander Đại đế) diễn ra vào năm 301 TCN tại một ngôi làng có tên là Ipsus ở Phrygia. Antigonos
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Antiochos IV Epiphanes **(, _Antíochos D' ho Epiphanḗs_, "Hiện thân của Thượng đế" sinh khoảng 215 TCN; mất 164 TCN) trị vì vương quốc Seleukos từ năm 175 TCN cho đến khi mất năm 164
**Vương quốc Hasmoneus** (/ hæzmə ˡ niən / Tiếng Do Thái: חשמונאים, Hashmonayim, âm thanh) là một nhà nước độc lập của người Do Thái tồn tại từ 140 TCN đến 37 TCN. Nhà Hasmoneus
**Demetrios II** (tiếng Hy Lạp: _Δημήτριος Β_ mất 125 TCN), được gọi là **Nicator** (tiếng Hy Lạp: "Νικάτωρ", nghĩa là "người chiến thắng") là con trai của Demetrios I Soter. Ông đã cai trị đế
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
thumb|Tiền xua của [[Antiochos III, xưởng đúc tiền Susa ,trong giai đoạn cai trị đầu tiên của ông ở Susa (223-222 TCN), trước cuộc nổi loạn của Molon]] thumb|Tiền xu của [[Antiochos III, xưởng đúc
**Diodotos Tryphon** là vua của vương quốc Hy Lạp hóa,đế chế Seleukos.Với vai trò là một thống chế quân đội, ông đã thúc đẩy việc lập Antiochos VI Dionysos,người con trai nhỏ của Alexandros Balas,
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Pyrros**, (; 319 – 272 trước Công nguyên) là nhà quân sự, chính trị Hy Lạp cổ đại. Pyrros làm vua xứ Ipiros lần đầu từ năm 306 đến 302 trước Công nguyên, lần hai
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Trận Raphia** (_Rafah_) hay còn gọi là trận Gaza, là trận đánh diễn ra vào ngày 22 tháng 6 năm 217 TCN, tại vùng Rafah, gần Gaza, giữa các lực lượng của Ptolemaios IV, vua
**Chiến tranh Crete **(205-200 TCN) là cuộc chiến giữa vua Philippos V của Macedonia, Liên minh Aetolia, các thành phố của Crete (trong đó có Olous và Hierapytna là quan trọng nhất) và cướp biển
Đồng xu [[Antoninianus của Zenobia hiển thị danh hiệu của bà, _Augusta_ và cho thấy bức tượng bán thân đội vương miện và được che phủ bởi quần áo của mình trên một lưỡi liềm
**Bacchides** () là một vị tướng lĩnh người Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa, ông là bạn của vị vua Hy Lạp-Syria Demetrios, "vua của vùng đất ở bên kia dòng sông"-Euphrates. Demetrius phái
**Akko** hay **Acre** (, _ʻAkko_; , _ʻAkkā_, tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἄκρη _Akre_) là một thành phố nhỏ ở phía Tây Galilee thuộc miền Bắc Israel, nằm ven Địa Trung Hải tại phần cực
**Antiochus XII Dionysos** (Epiphanes / Philopator / Callinicus), một vị vua của vương quốc Seleucid thời kỳ Hy Lạp hóa, người trị vì từ năm 87-84 trước Công nguyên, ông là con trai thứ năm
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Antiochos X Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp: , _Antíochos Efsevís Filopátor_; –92 hoặc 88 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ khoảng năm 95
**Cleopatra Selene** (; – 69 TCN) là nữ hoàng của Syria với tên gọi là **Cleopatra II Selene** (82–69 TCN). Bà là con gái của Ptolemaios VIII của Ai Cập với Cleopatra III. Năm 115
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Diodotos I Soter** (Tiếng Hy Lạp: ; tên hiệu của ông có nghĩa là "Vị cứu tinh"; ông sinh vào khoảng năm 285 TCN – mất vào khoảng năm 235 TCN) là vị vua đã sáng
**Antiochos XI Epiphanes Philadelphos ** (, _Antíochos Epifanís Filádelfos_; không rõ năm sinh – mất năm 93 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Attalos I** (tiếng Hy Lạp: Ἄτταλος), tên hiệu là **Soter** (tiếng Hy Lạp: Σωτὴρ, "Vua Cứu độ"; 269 TCN - 197 TCN) là vua cai trị Pergamon, một thành bang Hy Lạp ở Ionia (nay
**Antigonos I Monophthalmos** (tiếng Hy Lạp: Ἀντίγονος ὁ Μονόφθαλμος, "**Antigonos Độc Nhãn**", 382-301 TCN), con trai của Philippos xứ Elimeia, là một quý tộc người Macedonia và là tổng trấn dưới quyền Alexandros Đại đế.
**Demetrios Poliorketes** (tiếng Hy Lạp: **Δημήτριος Πολιορκητής**, Latin hóa: **Demetrius Poliorcetes**; * 337 TCN; † 283 TCN tại Apameia) là một vị tướng của Macedonia, và là vị quốc vương Diadochi của nhà Antigonos, cầm
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người