✨Philippos II của Macedonia

Philippos II của Macedonia

Philippos II của Macedonia ( — φίλος (phílos) = người bạn + ἵππος (híppos) = ngựa — dịch từng chữ , 382-336 trước Công Nguyên), hay còn được biết tới với cái tên Philippe II là một người Hy Lạp xưa, làm vua của Vương quốc Macedonia (một quốc gia của người Hy Lạp cổ đại) từ năm 359 trước Công Nguyên đến khi bị ám sát vào năm 336 trước Công Nguyên. Ông còn là cha của Alexandros Đại Đế, Philipos III, và có thể cả Ptolemaios I Soter - vị vua khai quốc của Vương triều Ptolemaios của Ai Cập cổ đại.

Ông là một nhà cải cách và sáng tạo quân sự,, đánh tan tác liên quân các thành bang Hy Lạp vào năm 338 trước Công Nguyên, và thống nhất Hy Lạp, và tạo điều kiện cho Alexandros Đại Đế mở rộng Đế quốc. Ngoài ra, ông còn là vị vua đã tiêu diệt quyền tự chủ và nền tự do của Hy Lạp cổ đại.

Được coi là một trong những vị danh tướng xuất sắc nhất của phương Tây, vị vua mạnh mẽ này còn có tài năng chính trị và ngoại giao kiệt xuất. Ông là vị lãnh đạo đầu tiên lập nên một thể chế liên bang trong lịch sử Hy Lạp cổ xưa, là người lập nên một bộ máy hành chính tập quyền vững mạnh tại nước nhà.

Cuộc đời

Sinh ra tại kinh đô Pella, Philippos là Hoàng tử út trong số ba người con trai hợp pháp của vua Amyntas III và Eurydice II. Vào thời trai trẻ (khoảng 368 - 365 trước Công Nguyên), Philippos từng là con tin tại Thebes, trong những năm tháng thành bang này trở thành "đàn anh" đối với mọi thành bang khác của Hy Lạp cổ đại. Trong thời gian làm con tin ở đó, Hoàng tử Philippos đã nhận được sự giáo dục về quân sự và ngoại giao từ Epaminondas - vị danh tướng đã trở thành bạn tình đồng tính luyến ái của (eromenos) của kiệt tướng Pelopidas và sống cùng với Pammenes - vị danh tướng ủng hộ nhiệt tình cho việc thiết lập đội thần binh hùng hậu của thành Thebes.

Vào năm 364 trước Công Nguyên, Philippos trở về cố quốc. Sau khi các anh trai là vua Alexandros II và Perdiccas III qua đời, ông lên nắm quyền bính. Tuy ban đầu chỉ tự phong làm quan Nhiếp chính cho cháu trai là tự quân Amyntas IV - đứa con trai mới chào đời của cố vương Perdiccas III, Philippos II đã lập mưu cướp lấy ngôi báu ngay trong năm đó.

Thiên tài quân sự của vua Philippos II và giấc mơ về một Đế quốc Macedonia vĩ đại đã sớm đưa ông tới thành công. Tuy vậy, việc đầu tiên là ông cần phải làm là thiết lập lại uy thế của Macedonia, do đất nước vốn đã trở nên tồi tệ sau khi vua Perdiccas III bại vong khi thân chinh đi đánh người Illyria. Người Paionia và Thrace đã cướp bóc và xâm lược miền Đông của đất nước trong khi quân Athena đã đổ bộ lên bờ biển Methoni bằng một đạo quân dưới quyền kẻ giả danh người Macedonia là Argeus. Nhờ các biện pháp ngoại giao, Philippos II đã đẩy lui được người Paionia và Thrace bằng việc hứa hẹn sẽ triều cống và nghiền nát 3 nghìn lính hoplite của thành Athena vào năm 359 trước Công Nguyên.

Philippos II đã kết hôn với Audata - người cháu đầu của vua người Illyrian của xứ Dardania là Bardyllis. Tuy nhiên, hôn nhân này không hề ngăn cản ông thân chinh tiến hành cuộc chinh chiến chống lại người Illyria vào năm 358 trước Công Nguyên và đánh tan tác quân thù trong một trận chiến đẫm máu, loại khỏi vòng chiến đấu được 7 nghìn người Illyria. Nhờ vào chiến thắng vang dội này, vua Philippos II đã mở rộng bờ cõi của đất nước tới tận hồ Ohrid và nhận được sự ủng hộ của xứ Ipiros.

Ông cũng lợi dụng cuộc Chiến tranh Liên minh làm cơ hội để mở rộng đất nước. Ông chấp thuận quân Athena - những kẻ không thể nào chinh phục được Amphipolis - được sở hữu các mỏ vàng của núi Pangaion, và cho thuê nó lại sau cuộc chinh phục của ông, để đổi lấy Pydna (quân Macedonia mất vùng này vào năm 363 trước Công Nguyên). Tuy nhiên, sau khi chinh phục được Amphipolis, ông chiếm lĩnh luôn cả hai thành phố vào năm 357 trước Công Nguyên. Vì vậy quân Athena tuyên chiến ông, và ông đã liên minh với Liên bang Chalkidian của Olynthus. Sau đó ông chinh phục được Potidaea, lần này ông giữ lời hứa của mình và nhượng lại nó cho liên bang năm 356 trước Công Nguyên. Một năm trước đó Philip đã kết hôn với công chúa Olympias của xứ Epirus, con gái của vua người Molossia. nhỏ|phải|Philip II gold [[stater, with head of Apollo.]] Vào năm 356 trước Công Nguyên, vua Philippos II cũng chinh phục được thị trấn Crenides và đổi tên thành Philippi: ông thành lập một đội quân đồn trú hùng mạnh có để kiểm soát các mỏ của nó, mà nhà vua nhận được rất nhiều vàng sau này được sử dụng cho các cuộc chinh phạt của ông. Trong khi đó, vị kiệt tướng Parmenion của ông lại một lần nữa đánh tan tác người Illyria. Cũng trong năm 356 Trước Công Nguyên, Hoàng tử Alexandros chào đời, và những con ngựa đua của vua Philippos II đã giành chiến thắng trong Thế vận hội Olympic. So với các đại kiện tướng khác vào thời cổ đại, tuy ông có lẽ ít được giáo dục kỹ lưỡng hơn, trong cung đình nhà vua khi đó có không ít nhà triết học và nghệ sĩ. Ông biết vài thứ ngoại ngữ, và ông cũng vời nhà triết học lừng danh Aristotle đến kinh đô để giảng dạy cho Hoàng tử Alexandros. Trong hai năm 355 - 354 trước Công Nguyên, ông đã vây hãm Methone, thành phố cuối cùng trên Vịnh Thermaic nằm trong tay quân Athena. Trong cuộc vây hãm, nhà vua bị mất một mắt. Mặc dù hai hạm đội Athena kéo đến để giải cứu thành phố này, Methone vẫn thất thủ về tay quân tinh nhuệ Macedonia vào năm 354 trước Công Nguyên. Nhà vua cũng xua quân tấn công Abdera và Maronea, trên bờ biển Thrace (354 - 353 trước Công Nguyên).

trái|Map of the territory of Philip II of Macedon Khi cuộc Chiến tranh Thần thánh lần thứ ba bùng nổ tại Hy Lạp, nhà vua tham chiến. Do vậy, vào Mùa Hè năm 353 trước Công Nguyên ông kéo ba quân đi thảo phạt xứ Thessaly, đánh tan tác 7 nghìn quân Phocia dưới quyền anh trai của Onomarchus. Tuy nhiên, sau chiến thắng này, quân Macedonia bị đại bại trong hai trận đánh liên tiếp. Tuy nhiên, vào Mùa Hè năm sau, nhà vua lại một lần nữa thân chinh đánh Thessaly, lần này với một lực lượng Quân đội tinh nhuệ gồm 2 vạn Bộ binh và 3 nghìn Kỵ binh bao gồm tất cả các chiến binh người Thessalía. Trong trận đánh lớn trên cánh đồng Crocus, quân Macedonia tiêu diệt được 6 nghìn quân Phocia, trong khi đó 3 nghìn quân Phocia bị bắt làm tù binh, và sau đó còn bị chết đuối.

Vào năm 345 trước Công Nguyên, vua Philippos II thân chinh kéo các chiến binh đi giao tranh ác liệt với quân Ardiaioi (Ardiaei) do đích thân vua Pluratus thống lĩng, trong cuộc chinh chiến này ông bị thương chí mạng ở phần dưới của chân phải, do một chiến binh Ardiaen.

Năm 342 TCN, Philip đã dẫn đầu một cuộc viễn chinh lớn tới phía bắc chống lại người Scythia, chinh phục khu đinh cư của người Thracia ở Eumolpia và lấy tên mình đặt cho nó, Philippopolis (ngày nay là Plovdiv).

Vào năm 340 trước Công Nguyên, nhà vua xua quân phạt thành Perinthus. Vào năm sau, ông lại đánh thành Byzantium. Nhưng ông không thể chiếm lĩnh được hai thành phố này, do đó uy quyền của ông trên toàn Hy Lạp bị giảm sút. Tuy nhiên, ông thành công trong việc khôi phục uy quyền của mình tại vùng biển Aegean qua việc đại phá liên quân Thebes - Athena trong trận đánh tại Chaeronea. Đây là một trong những chiến thắng vang dội nhất trong lịch sử Hy Lạp Cùng năm đó, Philippos II tàn phá Amfissa bởi vì đám cư dân tại đây tự tiện trồng trọt tại cánh đồng Crisaian vốn thuộc về Delphi. Philippos II còn thiết lập và thống lĩnh của Liên minh Corinth vào năm 337 trước Công Nguyên. Các thành viên của Liên minh chấp thuận rằng họ sẽ không gây chiến lẫn nhau, trừ phi phải đàn áp Cách mạng. Đại thắng tại Chaeronea và công lao thống nhất Hy Lạp đã chấm dứt thời kỳ của các thành bang, mà mở đầu thời đại của chủ nghĩa đế quốc trong lịch sử nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Mà với thời đại Đế quốc này thì Philippos II được xem là vị kiệt tướng đầu tiên của giai đoạn lịch sử này. Đối với Demosthenes, Philippos II là kẻ thù của Hy Lạp và Tự do. Nhưng đối với Isocrates, ông là minh chủ của nhân dân Hy Lạp trong cuộc chiến đấu chống Ba Tư. Nhà sử học Theopompus, người am hiểu rõ về nhà vua, thì có phê bình lối sống của ông nhưng coi ông là danh nhân kiệt xuất độc nhất vô nhị của châu Âu trước giờ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Philippos II của Macedonia** ( — _φίλος_ (phílos) = _người bạn_ + _ἵππος_ (híppos) = _ngựa_ — dịch từng chữ , 382-336 trước Công Nguyên), hay còn được biết tới với cái tên **Philippe II**
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
**Philippos III Arrhidaeus** (Tiếng Hy Lạp; _Φίλιππος Γ' ὁ Ἀρριδαῖος_, khoảng 358 TCN - 25 tháng 12 năm 317 TCN) là vua của Vương quốc Macedonia từ 10 tháng 6 năm 323 TCN cho đến
nhỏ|Ảnh trên đồng tiền của Philippos V của Macedonia. [[Bảo tàng Anh quốc.]] **Philippos V ** (tiếng Hy Lạp: _Φίλιππος Ε΄_) (238 TCN - 179 TCN) là một vị vua của Macedonia từ năm 221
**Argaeos II của Macedonia** (tiếng Hy Lạp: Ἀργαῖος Βʹ ὁ Μακεδών), là một người tranh đoạt ngôi vua của Macedonia. Ông cùng với sự hỗ trợ của người Illyria, đã lật đổ vua Amyntas III
**Alexandros Aegos** (hay **Alexandros IV**) (323 - 309 TCN), đôi khi còn được gọi là _Aegos_, là con trai của Alexandros Đại đế (Alexandros III của Macedonia) với công chúa Roxana của Bactria. ## Sinh
**Amyntas IV** (chữ Hy Lạp: _Ἀμύντας Δ `_) là một vị vua trên danh nghĩa của Macedonia trong năm 359 TCN và là thành viên của nhà Argos. ## Tiểu sử Ông là con trai
**Alexandros II**(chữ Hy Lạp: _Ἀλέξανδρος Β_) là vua của Macedonia từ năm 370-368 TCN. Là con cả trong ba người con trai của Amyntas II và Eurydike, có được sự ủng hộ của đa số
_Đối với những người khác cùng tên, xem Aeropos (định hướng)_ **Aeropos** () của Lyncestis là một sĩ quan chỉ huy tại trận Chaeronea. Sau trận đánh này, Philippos II của Macedonia đã lưu đày
**Nicesipolis** hoặc **Nicasipolis** của Pherae ( _Nikesipolis_) là vợ hoặc thê thiếp của Philippos II của Macedonia, bà còn là mẹ của Thessalonike của Macedonia. Nicesipolis là người gốc Thessaly, quê hương của bà là
**Antigenes** (; mất năm 316 TCN) là một tướng lĩnh của Alexandros Đại đế, ông đã từng phụng sự Philippos II của Macedonia và mất một mắt trong cuộc vây hãm Perinthos (năm 340 TCN).
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
:_Để biết thêm về một trận đánh này, xem bài Trận Chaeronea (86 TCN)_ **Trận Chaeronea** () đã diễn ra vào năm 338 trước Công Nguyên, gần thành phố Chaeronea tại vùng Boeotia, giữa Quân
**Amyntas III** (mất năm 370 TCN) là vua của vương quốc Macedonia vào năm 393 TCN và một lần nữa từ năm 392 tới năm 370 TCN. Ông là con trai của Arrhidaeos và cháu
**Glaukias **(tiếng Hy Lạp: Γλαυκίας; cai trị c.335-c.302 BC) là một trong những vị vua vĩ đại nhất của nước Taulanti mà cai trị người Illyria trong nửa sau của thế kỷ thứ 4 trước
nhỏ|phải|alt=A gold coin shows paired, profiled busts of a plump man and woman. The man is in front and wears a diadem and drapery. It is inscribed"ΑΔΕΛΦΩΝ".|Head of Ptolemaios II Philadelphus with Arsinoe II behind.
**Perdiccas III** (tiếng Hy Lạp: Περδίκκας Γ `) là vua Macedonia từ năm 368 - 359 trước Công nguyên, ông kế vị vua anh là Alexandros II. Ông là con trai của Amyntas III và
**Menelaos** (; , _Menelaos_) là một vị vua bản địa của Pelagonia, ông được người Athens ban tặng tước hiệu _euergetes_ ("người bảo trợ") vào năm 363 TCN vì đã giúp người Athen trong cuộc
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
Tranh khảm mô tả [[Trận Issus]] **Quân đội Macedonia** hay **Quân đội của Macedon** ở đây được hiểu là đội quân của Vương quốc Macedon cổ đại. Nó được coi là một trong những lực
**Trận cánh đồng Crocus** () (còn gọi là "Trận Volo") là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Thần thánh lần thứ ba, diễn ra giữa quân Phocis, dưới quyền tướng Onomarchos, và quân Liên
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại Đế** là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của
Đây là **Danh sách các vị vua của vương quốc Macedonia** () thời Hy Lạp cổ đại. ## Thần thoại *Makednos ## Các đời vua Macedonia ### Triều đại Argead * Karanos Κάρανος 808–778 TCN
**Makedonía** (, , cũng được viết là **Macedonia** theo tên tiếng Anh) là một vùng địa lý và lịch sử của Hy Lạp. Makedonía là vùng lớn nhất và đông dân cư thứ hai tại
**Eumenes xứ Cardia** (, 362—316 TCN) là một danh tướng và học giả người Hy Lạp, phục vụ trong quân đội Macedonia của vua Philippos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Trong cuộc nội
**Demetrios Poliorketes** (tiếng Hy Lạp: **Δημήτριος Πολιορκητής**, Latin hóa: **Demetrius Poliorcetes**; * 337 TCN; † 283 TCN tại Apameia) là một vị tướng của Macedonia, và là vị quốc vương Diadochi của nhà Antigonos, cầm
**Alexandros I của Ipiros** (tiếng Hy Lạp: Ἀλέξανδρος Α 'της Ηπείρου, 370 TCN - 331 TCN), cũng gọi là **Alexandros Molossus** (tiếng Hy Lạp: Ἀλέξανδρος ο Μολοσσός), là một ông vua của Ipiros (350-331 BC)
**Vua của cả châu Á** (tiếng Hy Lạp: Κύριος της Ασίας) là tước hiệu do người ta tôn phong cho vua Macedonia là Alexandros Đại đế, sau khi ông thắng trận Gaugamela vào năm 331
**Leonnatos** (tiếng Hy Lạp: Λεοννάτος; 356 TCN - 322 TCN), ông là một tướng lĩnh Macedonia của Alexandros Đại đế và là một trong những diadochi sau này. Ông là thành viên thuộc hoàng tộc
**Prusias I Cholus** (tiếng Hy Lạp: Προυσίας _Α 'ὁ Χωλός_, "Vua què", sống vào khoảng 243 TCN - 182 TCN, trị vì khoảng 228 TCN - 182 TCN) là một vị vua của Bithynia. Ông
**Demosthenes** (; ; ; 384 TCN – 12 tháng 10 năm 322 TCN) là một chính khách và nhà hùng biện người Athens thời Hy Lạp cổ đại. Các bài hùng biện của ông đã trở
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Artaxerxes III Ochus của Ba Tư** (khoảng 425-338 TCN; tiếng Ba Tư:اردشير سوم; tiếng Ba Tư cổ: 𐎠𐎼𐎫𐎧𐏁𐏂𐎠, phiên âm là _Artaxšaçā_) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Achaemenes xứ Ba Tư (358-338
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Lăng mộ của Cyrus Đại Đế** là lăng tẩm của Cyrus Đại đế - một vị "Vua của các vị vua" trong lịch sử Ba Tư. Theo nguồn của Hy Lạp, lăng mộ có từ
**Antipatros** (tiếng Hy Lạp: Ἀντίπατρος, Antipatros; khoảng 397 TCN – 319 TCN) là một vị tướng Macedonia và là người ủng hộ vua Philipos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Vào năm 320 TCN,
**Quân đội Seleukos **là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế. Giống như chính các quân đội Hy Lạp
**Ipiros** (Tiếng Hy Lạp: Ήπειρος Ipiros, tiếng Tây Bắc Hy Lạp: Ἅπειρος Apiros) là một quốc gia thời Hy Lạp cổ đại, nằm trong khu vực địa lý của Ipiros, ở phía Tây Balkan. Quê
**Thế vận hội** hay **Olympic** , còn có tên gọi cũ là _Thế giới vận động hội_, là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế
**Plutarchus** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Πλούταρχος, _Ploutarchos_), còn được viết theo tên tiếng Anh, tiếng Đức là **Plutarch**, và tiếng Pháp là **Plutarque**, (46 - 120) là một nhà tiểu luận và nhà tiểu
**Dromichaetes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Δρομιχαίτης, Dromichaites) là vua của người Getae ở cả hai bên bờ của hạ lưu sông Danube (ngày nay là Romania và Bulgaria) khoảng năm 300 trước Công nguyên.
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
nhỏ|phải|Một con ngựa ô nhỏ|phải|Một con ngựa đen **Ngựa đen** hay còn gọi là **ngựa ô** hay **hắc mã** là tên gọi trong tiếng Việt chỉ về những con ngựa có sắc màu đen là
**Bursa** () là một thành phố lớn nằm ở phía tây bắc Anatolia, thuộc vùng Marmara, Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là thành phố đông dân thứ hai của vùng Marmara và là thành phố đông
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Quân đội Macedonia nhà Antigonos ** là quân đội của Macedonia trong kỳ khi nó được cai trị bởi triều đại Antigonos từ năm 276 TCN đến 168 TCN. Nó được xem là một trong
**Attalos I** (tiếng Hy Lạp: Ἄτταλος), tên hiệu là **Soter** (tiếng Hy Lạp: Σωτὴρ, "Vua Cứu độ"; 269 TCN - 197 TCN) là vua cai trị Pergamon, một thành bang Hy Lạp ở Ionia (nay
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Pezhetairoi** (tiếng Hy Lạp: πεζέταιροι) là lực lượng nòng cốt của quân đội Macedonia và các vương quốc Diadochi. Họ được gọi trong thơ văn là " Chiến hữu bộ binh" (trong tiếng Hy Lạp