Alexandros Aegos (hay Alexandros IV) (323 - 309 TCN), đôi khi còn được gọi là Aegos, là con trai của Alexandros Đại đế (Alexandros III của Macedonia) với công chúa Roxana của Bactria.
Sinh ra
Alexandros IV là con trai của Alexandros Đại đế (một người Hy Lạp Macedonia) và Roxana, vợ của Alexandros (một người Sogdia). Ông là cháu nội của Philippos II của Macedonia. Do Roxana đã mang bầu khi Alexandros qua đời vào ngày 11 tháng 6 năm 323 TCN và giới tính của đứa bé chưa được biết rõ, cho nên đã có sự chia rẽ trong quân đội Macedonia về thứ tự kế vị. Trong khi lực lượng bộ binh ủng hộ người chú của đứa trẻ chưa ra đời là Philip III thì vị chiliarch Perdiccas, chỉ huy của lực lượng hetairoi (lực lượng kị binh chủ chốt của quân đội Macedonia) đã thuyết phục họ đợi với hy vọng rằng đứa trẻ được Roxana sinh ra sẽ là con trai. Hai phe đã thỏa hiệp và quyết định Perdiccas sẽ làm nhiếp chính của đế quốc này trong khi Philippos sẽ cai trị như là một ông vua bù nhìn và không có thực quyền. Nếu đứa trẻ là trai, cậu bé sẽ làm vua. Alexandros IV sinh vào tháng 8 năm 323 trước Công nguyên.
Nhiếp chính
Sau một thời kì nhiếp chính hà khắc và một chiến dịch quân sự thất bại tại Ai Cập, một cuộc binh biến trong quân đội đã nổ ra và Perdiccas bị ám sát bởi những tướng lĩnh cấp cao của ông vào tháng 5 hay tháng 6 năm 321 hoặc 320 TCN (những vấn đề với bảng niên đại của Diodoros khiến cho năm diễn ra sự kiện này không chắc chắn)). Sau đó, Antipatros đã được chọn làm vị nhiếp chính mới tại cuộc phân chia ở Triparadisus. Ông ta đã đưa Roxana cùng với hai vị vua tới Macedonia và để lại các vùng lãnh thổ đã chinh phục được trước đây ở Ai Cập và châu Á dưới quyền của các phó vương (xem diadochi). Khi Antipatros mất vào năm 319 TCN, ông đã chọn Polyperchon, một vị tướng Macedonia mà đã từng phục vụ vua Philippos II và Alexandros đại đế, làm người kế nhiệm ông đồng thời bỏ qua người con trai của mình là Kassandros.
Nội chiến
Kassandros đã liên minh với Ptolemaios I Soter, Antigonos và Eurydice, người vợ đầy tham vọng của vua Philippos Arrhidaeos, rồi tuyên chiến để giành chức vị nhiếp chính. Để chống lại, Polyperchon đã liên minh với Eumenes và Olympias.
Mặc dù vào giai đoạn đầu Polyperchon đã thành công và nắm được quyền kiểm soát các thành phố Hy Lạp nhưng hạm đội của ông đã bị Antigonos tiêu diệt vào năm 318 TCN. Sau trận chiến này, Kassandros đã gần như kiểm soát được toàn bộ Macedonia. Polyperchon bị buộc phải chạy trốn đến Ipiros cùng với Roxana và Alexandros trẻ tuổi. Một vài tháng sau, Olympias đã có thể thuyết phục người họ hàng của bà là Aeacides của Ipiros hỗ trợ Polyperchon tấn công giành lại Macedonia. Khi Olympias tới chiến trường, quân đội của Eurydice đã từ chối chống lại người mẹ của Alexandros và đào ngũ về phía Olympias, điều này đã tạo điều kiện cho Polyperchon và Aeacides dễ dàng chiếm lại Macedonia. Philippos và Eurydice đã bị bắt và hành quyết vào ngày 25 tháng 12 năm 317 TCN, lúc này chỉ còn duy nhất một mình Alexandros IV là vua và Olympias làm nhiếp chính của ông.
Kassandros đã quay trở lại vào năm sau (316 TCN) và chinh phục Macedonia một lần nữa. Olympias ngay lập tức bị hành quyết, trong khi nhà vua và mẹ của ông bị bắt làm tù binh và nằm dưới sự giam giữ của Glaucias tại pháo đài Amphipolis. Mãi đến khi các vị tướng Kassandros, Antigonos, Ptolemaios, và Lysimachos ký kết một hiệp ước đình chiến để chấm dứt cuộc chiến tranh Diadoch lần thứ ba vào năm 311 TCN thì họ mới công nhận quyền lực của Alexandros IV và có quy định rõ rằng khi ông đến tuổi thì sẽ thừa kế ngai vua từ Kassandros.
Qua đời
thumb|left|Ngôi mộ thứ 3 ở [[Vergina có thể thuộc về Alexandros IV]]
Sau hiệp ước trên, những người trung thành với triều đại Argead bắt đầu tuyên bố rằng Alexandros IV bây giờ đã trưởng thành và một vị quan nhiếp chính là không còn cần thiết nữa. Kassandros đã phản ứng ngay lập tức: ông ta ra lệnh cho Glaucias bí mật ám sát vị vua 14 tuổi. Mệnh lệnh ngay lập tức được chấp hành, Alexandros và mẹ của mình bị đầu độc chết. Đã có tranh cãi về năm mất chính xác của Alexandros IV bởi vì các nguồn mâu thuẫn nhau và theo sự nhất trí của Hammond và Walbank trong Lịch sử Macedonia tập thứ 3 thì Alexandros đã bị sát hại muộn nhất là vào mùa hè năm 309 TCN, ngay sau khi người anh cùng cha khác mẹ của ông là Heracles bị sát hại. Tuy nhiên, Green nghĩ rằng Heracles đã bị sát hại sau khi Alexandros IV bị ám sát
Một trong những lăng mộ hoàng gia được phát hiện bởi nhà khảo cổ học Manolis Andronikos trong quần thể được gọi là "Đại tumulus" ở Vergina vào năm năm 1977 / 8 được tin là thuộc về Alexandros IV.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Alexandros Aegos** (hay **Alexandros IV**) (323 - 309 TCN), đôi khi còn được gọi là _Aegos_, là con trai của Alexandros Đại đế (Alexandros III của Macedonia) với công chúa Roxana của Bactria. ## Sinh
**Philippos IV của Macedonia** (tiếng Hy Lạp: Φίλιππος Δʹ ὁ Μακεδών; mất năm 297 TCN) là con trai của Kassandros. Ông đã kế vị ngai vàng của Macedonia từ người cha của mình trong một
**Amyntas IV** (chữ Hy Lạp: _Ἀμύντας Δ `_) là một vị vua trên danh nghĩa của Macedonia trong năm 359 TCN và là thành viên của nhà Argos. ## Tiểu sử Ông là con trai
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Vua của cả châu Á** (tiếng Hy Lạp: Κύριος της Ασίας) là tước hiệu do người ta tôn phong cho vua Macedonia là Alexandros Đại đế, sau khi ông thắng trận Gaugamela vào năm 331
**Philippos II của Macedonia** ( — _φίλος_ (phílos) = _người bạn_ + _ἵππος_ (híppos) = _ngựa_ — dịch từng chữ , 382-336 trước Công Nguyên), hay còn được biết tới với cái tên **Philippe II**
**Philippos III Arrhidaeus** (Tiếng Hy Lạp; _Φίλιππος Γ' ὁ Ἀρριδαῖος_, khoảng 358 TCN - 25 tháng 12 năm 317 TCN) là vua của Vương quốc Macedonia từ 10 tháng 6 năm 323 TCN cho đến
nhỏ|Tiền xu của Perseus của Macedonia. Dòng chữ [[tiếng Hy Lạp là "_ΒΑΣΙΛΕΩΣ ΠΕΡΣΕΩΣ_" (Vua Perseus).]] **Perseus** (tiếng Hy Lạp: Περσεύς; khoảng 212 TCN - 166 TCN) là vị vua cuối cùng (Basileus) của nhà
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Perdiccas III** (tiếng Hy Lạp: Περδίκκας Γ `) là vua Macedonia từ năm 368 - 359 trước Công nguyên, ông kế vị vua anh là Alexandros II. Ông là con trai của Amyntas III và
Đây là **Danh sách các vị vua của vương quốc Macedonia** () thời Hy Lạp cổ đại. ## Thần thoại *Makednos ## Các đời vua Macedonia ### Triều đại Argead * Karanos Κάρανος 808–778 TCN
**_Trận đánh của Alexandros_** (tiếng Đức: _Alexanderschlacht_) là một bức tranh sơn dầu được họa sĩ người Đức Albrecht Altdorfer (khoảng 1480-1538) thực hiện vào năm 1529. Ông là một nhà tiên phong của nghệ
**Năm 323 TCN** là một năm trong lịch Roman. ## Sự kiện * Philippos III của Macedonia và Alexandros IV của Macedonia cùng lên ngôi quân chủ của Macedonia ## Sinh * Alexandros IV của
**Alexandros Helios** (; cuối năm 40 TCN – không rõ, nhưng có thể trong khoảng năm 29 và 25 TCN) là một vị hoàng tử nhà Ptolemaios và là người con trai cả của nữ
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
phải|Nước Epiros cổ xưa **Aeacides** (tiếng Hy Lạp: Aἰακίδης; mất năm 313 trước Công Nguyên), là vua xứ Ipiros thời Hy Lạp cổ, cai trị lần đầu từ năm 331 đến năm 316 trước Công
thumb|Một [[Nghệ thuật điêu khắc La Mã|bức tượng La Mã được phục dựng lại của Cleopatra VII, bà đội một chiếc vương miện và kiểu tóc 'quả dưa' giống với các bức chân dung tiền
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
**Kassandros** (tiếng Hy Lạp: Κάσσανδρος Ἀντιπάτρου, _Kassandros con trai của Antipatros_; kh. 350 TCN – 297 TCN), còn gọi là **Cassander** trong ngôn ngữ hiện đại, ông là vua của Macedonia từ năm 305 đến
**Eumenes xứ Cardia** (, 362—316 TCN) là một danh tướng và học giả người Hy Lạp, phục vụ trong quân đội Macedonia của vua Philippos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Trong cuộc nội
**Peithon** hoặc **Pithon** (tiếng Hy Lạp: Πείθων hoặc Πίθων, khoảng 355 – khoảng 314 TCN) là con trai của Crateuas, một nhà quý tộc đến từ Eordaia ở miền tây Macedonia. Peithon là người gốc
**Roxana** (tiếng Ba Tư: Rauxana, nghĩa là " ngôi sao nhỏ") đôi khi gọi là Roxane, là một quý tộc Bactria và là một người vợ của Alexandros Đại đế. Bà được sinh ra trước
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
**Berenice I **(kh. 340 TCN-giữa 279-268 trước Công nguyên) là một phụ nữ quý tộc Hy Lạp Macedonia và thông qua cuộc hôn nhân với Ptolemaios I Soter, bà trở thành Vương hậu đầu tiên
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Quân đội Seleukos **là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế. Giống như chính các quân đội Hy Lạp
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
Lực lượng **Argyraspides** (trong tiếng Hy Lạp: Ἀργυράσπιδες "Những chiếc khiên bạc"), là một bộ phận thuộc quân đội Macedonia của Alexander Đại đế, họ đã được gọi như vậy vì họ mang những tấm
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Artaxerxes III Ochus của Ba Tư** (khoảng 425-338 TCN; tiếng Ba Tư:اردشير سوم; tiếng Ba Tư cổ: 𐎠𐎼𐎫𐎧𐏁𐏂𐎠, phiên âm là _Artaxšaçā_) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Achaemenes xứ Ba Tư (358-338
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Đại Armenia** (tiếng Armenia: Մեծ Հայք _Mets Hayk_), cũng gọi là **Vương quốc Đại Armenia **, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc diadochi khác: Các lãnh thổ khác: ]] **Nhà Ptolemaios** (tiếng Anh: _The Ptolemaic dynasty_; tiếng Hy Lạp: _Πτολεμαίος_, _Ptolemaioi_), cũng thường gọi là **Lagids**, **Lagides** hay **Lagidae** theo tên của
[[Vương quốc Armenia dưới thời nhà Orontes]] **Nhà Orontes** (tiếng Armenia: Երվանդունիների հարստություն (Yervandownineri harstowt'yown), hoặc, được gọi bằng tên gốc của họ, Yervanduni) là triều đại đầu tiên của Armenia. Nhà Orontes thiết lập
**Herodotos** xứ Halikarnasseus, còn gọi là **Hérodote** hay **Herodotus** (tiếng Hy Lạp: Hρόδοτος Aλικαρνασσεύς Hēródotos Halikarnāsseús, phiên âm dựa theo tiếng Pháp _Herodote_ là **Hê-rô-đốt**) là một nhà sử học người Hy Lạp sống ở
**Vương quốc Hasmoneus** (/ hæzmə ˡ niən / Tiếng Do Thái: חשמונאים, Hashmonayim, âm thanh) là một nhà nước độc lập của người Do Thái tồn tại từ 140 TCN đến 37 TCN. Nhà Hasmoneus
**Thư viện Alexandria** ở thành phố Alexandria của Ai Cập từng là một trong những thư viện lớn và quan trọng nhất trong số các thư viện của thế giới cổ đại. Thư viện là