✨Trận Thermopylae

Trận Thermopylae

Trận Thermopylae là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử, là một cuộc chạm trán giữa các thành bang Hy Lạp, dưới sự dẫn dắt của Leonidas I xứ Sparta và Đế quốc Ba Tư Cổ đại dưới sự chỉ huy của Xerxes Đại đế kéo dài trong khoảng ba ngày. Trận đánh diễn ra cùng một thời điểm với trận hải chiến Artemisium vào tháng 8 hoặc tháng 9 năm 480 TCN, tại hẻm núi Thermopylae ("Cổng lửa"). Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư là một hành động đáp trả lại cuộc xâm lược lần đầu tiên đã thất bại sau khi bị quân đội Athens đánh tan tác trong Trận Marathon mười năm về trước. Để chuẩn bị tái xâm lược Hy Lạp, Xerxes đã tập hợp được một đội quân và lực lượng khổng lồ. Vị tướng người Athens Themistocles là người đã đề xuất đánh chặn bộ binh và tàu chiến của Ba Tư tại Thermopylae và Artemisium.

Khoảng 7000 quân Hy Lạp tiến quân lên phía bắc để chặn đánh tại hẻm núi vào mùa hè năm 480 TCN. Theo các nhà sử học thời cổ đại, số lượng quân Ba Tư là nhiều hơn 1 triệu, nhưng thống kê ngày nay nhỏ hơn nhiều (có nhiều kết quả trong phạm vi 70.000-300.000 được đưa ra từ nhiều học giả khác nhau). Quân đội Ba Tư đến đây vào khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9. Có tới ba trận đánh lớn diễn ra trong bảy ngày, giữa quân Hy Lạp và Ba Tư trước khi tạo nên một cuộc tử chiến tiêu biểu nhất trong lịch sử. Trong vòng hai ngày, một đạo quân nhỏ bé dưới sự chỉ huy của vua Leonidas I của Sparta đã chặn con đường duy nhất mà quân Ba Tư có thể vượt qua để tiến xuống phía Nam. Sau ngày thứ hai, một người tên là Ephialtes đã phản bội lại quân Hy Lạp bằng cách chỉ một lối khác tiến ra phía sau quân Hy Lạp. Sau khi biết mình bị đánh úp, Leonidas điều lại tất cả các quân đội Hy Lạp và chỉ giữ lại 300 quân Sparta, 700 quân Thespiae và 400 quân Thebes hoặc có lẽ là vài trăm người nữa bên cạnh để chống lại cuộc tấn công, phần lớn đều bị giết và chỉ có một số ít chạy thoát được.

Sau sự kiện này, hải quân Hy Lạp dưới sử chỉ huy của chính trị gia Themistocles đang chặn hải quân Ba Tư ở Artemisium đã nhận được tin rằng quân đội đã thất thủ tại Thermopylae. Biết rằng phòng tuyến Thermopylae-Artemisium đã vỡ, người Hy Lạp đã quyết định rút lui về Salamis. Quân đội Ba Tư tràn vào Boeotia và cướp phá thành Athens, tuy nhiên cư dân Athens đều đã được di dời đi nơi khác. Hạm đội Hy Lạp đã chuẩn bị cho một chiến thắng quyết định trước hạm đội Ba Tư, và họ đã thực hiện được điểu này trong trận Salamis diễn ra cùng tháng. Sau thất bại, do sợ bị mắc kẹt tại châu Âu, bị đe dọa bởi thiếu lương thực và bệnh tất, Xerxes đã dẫn phần lớn đại quân quay trở lại châu Á, chỉ để Mardonius cùng khoảng 300.000 quân (theo Herodotus) hoặc 70,000–120,000 (thống kê ngày nay) ở lại để chiếm nốt các vùng đất còn lại của Hy Lạp. Tuy nhiên, một năm sau đó, quân đội Ba Tư đã bị đánh bại trong trận Platea (479 TCN), và bắt buộc phải hủy bỏ cuộc xâm lược này.

Cả văn học cổ đại và hiện đại đều thường dùng trận Thermopylae làm ví dụ cho sức mạnh của một đội quân yêu nước, chiến đấu vì dân tộc vì quốc gia. Việc thực hiện cuộc phòng thủ tại Thermopylae là cũng là một ví dụ về cách sử dụng nhân lực hiệu quả, cách vận dụng địa hình hiểm làm chiến trường và đã trở thành một biểu tượng của lòng dũng cảm chống lại nghịch cảnh.

Sử liệu

Phần lớn các nguồn chủ yếu về cuộc chiến giữa Hy Lạp và Ba Tư đều xuất phát từ các tác phẩm Herodotus. Tuy nhiên, việc ông gọi người Ba Tư là "rợ" đã khiến tác phẩm "Xerxes" của Dennis Abrams xem ông thiên vị quê cha đất tổ Hy Lạp của ông. Nhà sử học Sicilia Diodorus Siculus cũng nhắc đến khá nhiều về cuộc chiến này trong tác phẩm Bibliotheca Historica của ông trong thế kỷ 1 TCN. Tuy nhiên ông cũng đã tham khảo các tác phẩm của Ephorus, một sử gia Hy Lạp thời kỳ trước. Các phẩm này đều có nhiều điểm giống với những tác phẩm của Herodotus. Cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư cũng được mô tả ít chi tiết hơn từ các tác phẩm của một số sử gia khác thời cổ đại bao gồm Plutarch, Ctesias của Cnidus, và được nhắc đến trong nhiều vở kịch khác nhau, tiêu biểu là Persai (Πέρσαι, Những người Ba Tư), một vở kịch của nhà soạn kịch vĩ đại Aeschylus. Nhiều bằng chứng khảo cổ, chẳng hạn như các cột Serpent (nằm trong trường đua Hippodrome, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ), cũng đã xác nhận nhiều chi tiết cụ thể mà Herodotus đã từng đưa ra trong các tác phẩm của mình.

Bối cảnh

phải|[[Hy Lạp cổ đại|Thế giới Hy Lạp tại thời điểm diễn ra trận chiến. Xứ Thrace đã bị Ba Tư thâu tóm, và Macedonia cũng trở thành một chư hầu của Ba Tư]] Vào năm 551 TCN, vua xứ Ba Tư là Cyrus Đại Đế đánh đổ "thiên triều" của ông là Đế quốc Media. Ông lên ngôi Hoàng đế của Ba Tư và Media, khởi lập Đế quốc Ba Tư. Với công cuộc bành trướng của mình, ông chinh phạt các Đế quốc giàu có và hùng mạnh như Lydia và Babylon, đưa Đế quốc Ba Tư trở thành đế quốc rộng lớn nhất thế giới thời đó. Sau khi kinh đô Sardis của xứ Lydia thất thủ vào năm 547 TCN, các thành bang Hy Lạp lân cận cũng đầu hàng vị "Vua của các vị vua". "Vua của các vị vua" Cambyses II lên nối ngôi vào năm 530 TCN, ông hoàn tất công cuộc bành trướng của vua cha, tiến hành chinh phạt xứ Ai Cập. Lúc vua Darius I lên ngôi "Vua của các vị vua" vào năm 522 TCN, ông thừa hưởng một Đế quốc vô cùng rộng lớn, trong đó có "toàn bộ châu Á".

"Vua của các vị vua" Darius I tích cực củng cố và xây dựng đất nước, tiến hành những cải cách lớn lao. Ông cũng tiếp tục công cuộc mờ mang bờ cõi và gặt hái nhiều chiến công hiển hách, dẹp tan các cuộc nổi dậy ở xứ Media và xứ Babylon. Sau những năm tháng chinh phạt của Đế quốc Ba Tư, đang trong thời kỳ thái bình thịnh trị thì ông hay tin dữ. Nhân dân Ionia nổi dậy chống lại sự thống trị của ông, lúc đó là cuối triều đại lâu dài và thành công của ông. Được sự hỗ trợ của thành bang Athena, tỉnh Lydia. Nhận biết được cuộc nổi dậy này sẽ ảnh hướng đến đế chế của mình, Darius lên kế hoạch trừng phạt những người tham gia hoặc có đóng góp chút ít vào cuộc khởi nghĩa này. Một chuyến thám hiểm vào sâu đất Hy Lạp dưới sự chỉ huy của Mardonius năm 492 TCN để dò la các ý định của Hy Lạp trong ý đồ tái chinh phục Thrace, và buộc Macedonia để trở thành một vương quốc chư hầu của Ba Tư.

Darius đã cho gửi sứ giả đến tất cả các thành bang Hy Lạp vào năm 491 TCN yêu cầu họ dâng một món quà "rất đặc biệt", 'đất và nước'. Đã có một cuộc biểu tình vào cuối năm trước, phần lớn các thành bang Hy Lạp đều phải chấp nhận theo yêu cầu. Tuy nhiên, tại Athena, sứ giả Ba Tư đã bị tra khảo và sau đó bị xử tử bằng cách ném vào một cái giếng ở Sparta. Điều này có nghĩa rằng Sparta cũng phải góp phần trong cuộc chiến tranh với Ba Tư. Cuối cùng, đại quân hướng đến Athena, hạ trại tại vịnh Marathon, tại nơi nó quân Ba Tư phải đối mặt với một đội quân người Athena đông hơn rất nhiều. Trong trận đánh tại Marathon, người dân Athena đã giành một chiến thắng quyết định, bắt buộc quân Ba Tư phải rút lui về châu Á.

Sau đại bại, Darius bắt đầu tập hợp một đội quân mới mà ông dự định dùng họ để chinh phục hoàn toàn đất Hy Lạp. Tuy nhiên sự việc diễn ra không được như mong muốn, năm 486 TCN, nhân dân Ai Cập đứng lên phất cờ khởi nghĩa, điều này khiến Darius phải gạt ý đồ tái xâm lước Hy Lạp sang một bên. Nhưng Darius đã đột ngột qua đời trong khi chuẩn bị tiến vào Ai Cập, và ngai vàng Ba Tư được truyền cho con trai của ông là Xerxes I. Xerxes nghiền nát cuộc nổi dậy tại Ai Cập, và rất nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc xâm lược của Hy Lạp lần thứ hai. Và đây sẽ là một cuộc xâm lược quy mô đầy đủ, nó đòi hỏi kế hoạch lâu dài, và đi song song là chế độ cưỡng bách tòng quân. Xerxes đã quyết định rằng Hellespont sẽ là cầu nối cho phép quân đội của mình tiến đến châu Âu, và một kênh đào được đào qua eo núi Athos (một hạm đội Ba Tư đã bị phá hủy tại đây năm 492 TCN). Đầu năm 480 TCN, các chế phẩm đã hoàn tất, và quân đội Xerxes đã tập trung tại Sardis để chuận bị cuộc hành quân hướng tới châu Âu, bằng cách đi trên hai cầu phao tại Hellespont.

Dạo đầu

phải|Bản đồ cho thấy cuộc hành quân của hai phía đến [[Thermopylae và Artemisium.]] Quân Ba Tư dường như đã vượt qua Thrace và Macedonia. Tin tức về quân Ba Tư được một điệp viên Hy Lạp thông báo trong tháng tám. Ở thời điểm này trong năm tại Sparta, người lãnh đạo de facto (trên thực tế) của liên minh đang tham gia vào lễ hội Carneia. Theo phong tục Sparta, trong lễ hội Carneia không ai được phép xuất quân. Cũng vì luật này, mà người Sparta đã không tham gia vào trận đánh tại trận Marathon (490 TCN) vì đến muộn. Và đây cũng là thời điểm Đại hội Olympic diễn ra, và trong thời gian này tất cả các quốc gia kể cả đang giao chiến với nhau cũng phải đình chiến, và nếu phạm luật thì điều này có nghĩa là phạm thánh. Mặc dụ chiến sự cấp bách, nhưng phần lớn các chính trị gia đều ngăn cản không cho đức vua Leonidas I đem đại quân đi. Vì thế Leonidas chỉ cùng 300 cận vệ Hippeis-tất cả những gì ông được phép mang theo bên mình. Cùng với đó là một số lượng lớn hơn quân tiếp viện, bao gồm 1.000 quân Phocea, được lấy từ Lacedaemon (bao gồm khá nhiều heílotes). Trong cuộc hành quân này, cố gắng duy nhất là thu thập càng nhiều lính người Hy Lạp khác trên đường đi càng tốt, và điều lớn hơn nữa là sự tham gia của đại quân Sparta.

Trong truyến thuyết về Thermopylae được Herodotus nhắc đến, vào đầu năm, những người đứng đầu Sparta đã đến gặp những nhà tiên tri ở một ngôi đền tại Delphi. Những nhà tiên tri đã đưa ra một lời sấm rằng:

Tự quyết định số phận mình, tập hợp người dân Sparta ở khắp mọi nơi,
Hoặc thành phố nổi tiếng tuyệt với của các ngươi sẽ bị chôn vùi bởi những người con Perseus
Hoặc, nếu có được không, toàn bộ đất Lacedaemon
Phải thương tiếc cái chết của một vị vua của nhà Heracles,
Mặc dù sức mạng của những con sư tử hay bò cũng không giữ được chân ông
Sức chống sức; chỉ dành cho người có sức mạnh của thần Zeus
Chẳng ai biết được một trong hai có sức mạnh này.

Herodotus đã nhắc về Leoniadas, khi nghe lời sấm, ông đã tin rằng mình sẽ chết vì không đủ lực lượng để giành được một chiến thắng, và ông đã quyết định truyền ngôi cho con trai của mình.

Quân đội Sparta được tăng cường trên đường đi bởi các đội quân từ nhiều thành bang khác nhau gia nhập và con số này đạt đến 7000 (xem phía dưới) khi họ đặt chân đến Thermopylae. Leonidas cho quân cắm trại và phòng thủ tại nơi hẹp nhất của hẻm Thermopylae. Trước đây, những người dân trong thành phố Phocis đã cho xây dựng một bức tường phòng thủ tại nơi này. Trong thời gian ở đây, Leonidas nhận được tin từ người dân địa phương rằng, có một lối mòn trên núi dẫn đến phía sau và quân Ba Tư hoàn toàn có thể dùng con đường này để đành úp người Sparta với điều kiện họ có biết đến nó hay không. Leonidas đã cho 1.000 quân trú ở trên núi để đề phòng bất trắc.

Cuối cùng giữa tháng tám, người Ba Tư đã tiếp cận đến vịnh Maliac. Việc quân Ba Tư đặt chân đến Thermopylae khiến người Hy Lạp phải tổ chức một cuộc họp hội đồng. Nhiều người Peloponnesus ủng hộ việc rút về eo đất Corinth, lối vào bán đảo Peloponnesus, và chặn đứng quân Ba Tư tại đây. Tuy nhiên những người đến từ Phocis và Locris do ở gần khu vực này đã bất bình và ủng hộ việc phòng thủ tại Thermopylae khiến hai bên xảy ra ẩu đã. Leonidas trấn áp nỗi lo ngại của mọi người bằng cách quyết định phòng thủ tại Thermopylae. Khi những điều này bị Leonidas từ chối, sứ giả Ba Tư tiếp tục khuyên ông quỳ gối chịu hàng. Và câu trả lời nổi tiếng trước sứ giả Ba Tư là: "Hãy đến đây mà lấy!" (μολὼν λαβέ). Nhưng một câu nói nổi tiếng hơn lại xuất phát từ một vị tướng của ông. Trước phản ứng của Leonidas, người Ba Tư đe dọa: "Những mũi tên của chúng tao sẽ che khuất ánh mặt trời!". Một vị tướng của Leonidas đáp trả: "Vậy chúng tôi sẽ chiến đấu trong bóng tối!". Lúc mà vị sứ giả quay về cũng là lúc cuộc chiến bắt đầu. Xerxes cố đợi bốn ngày để làm nản lòng quân Hy Lạp, trước khi đem quân đánh họ.

Lực lượng hai bên

Ba Tư

nhỏ|phải|Đội Cấm quân (Bất tử) của [[Xerxes I của Ba Tư|Xerxes Đại đế]] Số quân mà Xerxes tập hợp để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai vào Hy Lạp là một chủ đề tranh chấp bất tận, bởi vì những con số được đưa ra trong tài liệu cổ thực sự quá lớn. Herodotus ghi chép trong các tác phẩm của mình là đã có 2.600.000 quân lính tham gia vào cuộc chiến, kèm theo số lượng dân phu lao dịch đã tham gia cũng nhiều không kém. Nhà thơ đương thời Simonides, nói rằng có ít nhất 4.000.000 người đã tham chiến; theo nhà sử học Ctesias, 80 vạn là tổng số của binh lính mà Xerxes Đại đế đã mang theo trong cuộc hành quân sang Hy Lạp.

Học giả hiện đại có xu hướng tẩy chay những con số được đưa ra bởi Herodotus và các tài liệu cổ khác vì cho nó là không thực tế, và điều này có thể là một kết quả của việc tính toán sai lầm hay thiên vị kẻ chiến thắng. Theo ước tính hiện đại, quân đội của Xerxes có khoảng 70,000-300,000 người. Những ước tính này thường đến từ nghiên cứu các khả năng hậu cần của người Ba Tư trong thời kỳ đó. Mặc dù dân số toàn đế quốc Ba Tư thời kỳ đó là 50.000.000 người, chiếm 44% toàn thể dân số thế giới thời kỳ đó, nhưng việc huy động được một đội quân như thế không phải là điều dễ dàng. Dù Xerxes lo lắng để đảm bảo một cuộc viễn chinh thành công bằng cách dồn một ưu thế áp đảo về quân số trên cả đường bộ và đường biển thì chưa chắc toàn bộ binh lực Ba Tư chuẩn bị cho cuộc chiến đã có mặt tại Thermopylae. Điều này chưa rõ ràng vì Xerxes cần gì phải đem một đội quân lớn đến thế để đánh vào Hy Lạp, khi ông đã có quân đội đồn trú

Hy Lạp

ghi chú:

*Số lượng người Peloponnesia:

Diodorus cho rằng có 1.000 người Lacedemonia và 3.000 người Peloponnesia khác, với tổng số là 4.000. Herodotus đồng ý với con số này trong một đoạn văn, trích dẫn một câu thơ của Simonides nói rằng đã có 4.000 người Peloponnesia. Tuy nhiên, ở những nơi khác, trong đoạn văn tóm tắt trong bảng trên, Herodotus đã kể ra 3.100 người Peloponnesia tại Thermopylae trước khi trận chiến bắt đầu

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Thermopylae** là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử, là một cuộc chạm trán giữa các thành bang Hy Lạp, dưới sự dẫn dắt của Leonidas I xứ Sparta và Đế quốc Ba
**Trận Thermopylae** đã diễn ra vào năm 191 Trước Công Nguyên, giữa Quân đội La Mã do quan Tổng tài Manius Acilius Glabrio và Quân đội Seleukos do vua Antiochos III Đại đế thân chinh
**Trận Salamis** (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, _Naumachia tēs Salaminos_), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo
right|thumb|Cảnh đèo Thermopylae từ khu vực bức tường Phocia. Trong thời kỳ cổ đại, bờ biển gần núi hơn, gần con đường bên phải. Đây là một kết quả của lắng đọng trầm tích. thumb|Mô
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trận Tali-Ihantala** (25 tháng 6 - 9 tháng 7 năm 1944) là một phần của cuộc Mặt trận Phần Lan (Chiến tranh Xô-Đức) (1941–1944), xảy ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là
**Trận Magnesia** nổ ra năm 190 TCN gần Magnesia ad Sipylum, trên vùng đất của Lydia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) giữa người La Mã do chấp chính quan Lucius Cornelius Scipio và người
**_300_** là một bộ phim của hãng Warner Bros khởi quay năm 2006 và phát hành vào năm 2007, nội dung phim dựa trên _Trận Thermopylae_ nổi tiếng trong lịch sử Hy Lạp. Một trong
:_Để biết thêm về một trận đánh này, xem bài Trận Chaeronea (86 TCN)_ **Trận Chaeronea** () đã diễn ra vào năm 338 trước Công Nguyên, gần thành phố Chaeronea tại vùng Boeotia, giữa Quân
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Khsayarsha/Xerxes I của Ba Tư** (trong tiếng Ba Tư: Khashayarsha (خشایارشا) ‎)) là một vị vua Ba Tư (trị vì:485-465 TCN), thuộc nhà Achaemenid. _Xérxēs_ (Ξέρξης) là dạng từ tiếng Hy Lạp của tên niên
**_300: March to Glory_** là một game dành cho hệ máy cầm tay PlayStation Portable (PSP) được phát hành vào ngày 27 tháng 2 năm 2007, dựa trên loạt truyện tranh _300_ của Frank Miller
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
**Leonidas I** (; ; mất ngày 19 tháng 9 năm 480 TCN) là một vị vua của thành bang Sparta thuộc Hy Lạp, và là vua thứ 17 thuộc dòng dõi Agiad, một vương triều
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
nhỏ|280x280px|Thung lũng lòng chảo Lacedaemon. Địa điểm thờ Menelaion, đền thờ cổ xưa dành cho Helen và Menelaus được xây dựng trong thành phố Thời kỳ đồ đồng này nằm trên đồi [[Therapnes|Therapne ở tả
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
Các **biểu tượng Olympic** là biểu trưng, cờ và biểu tượng được sử dụng bởi Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) để nâng tầm Thế vận hội Olympic. Một số chẳng hạn như ngọn lửa,
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
**Phalanx** (tiếng Hy Lạp cổ: _φάλαγξ_, tiếng Hy Lạp hiện đại: _φάλαγγα_, phiên âm: _phālanga_, số nhiều: _φάλαγγες_, phiên âm: _phālanges_), thường được chuyển ngữ Việt là **Phương trận**, là một đội hình quân sự
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
phải|thumb|Giả vờ rút lui. **Giả vờ rút lui** là một chiến thuật quân sự, theo đó một lực lượng quân sự giả vờ rút lui sau một trận giao chiến để thu hút kẻ thù
phải|thumb|Quân X đang bị quân V bao vây trên một khu vực. **Bao vây** là một thuật ngữ quân sự, chỉ tình hình khi một lực lượng quân sự tại một vị trí bị cô
thumb|Tranh La Mã mô tả đám cưới giữa hai chị em [[Jupiter (thần thoại)|Jupiter và Juno, thế kỷ I]] **Loạn luân** hoặc **phi luân** là hoạt động tình dục giữa những người trong cùng gia
**_Assassin's Creed Odyssey_** là một trò chơi nhập vai hành động do Ubisoft Quebec phát triển và Ubisoft xuất bản. Đây là phần chính thứ mười một trong loạt _Assassin's Creed_ và kế thừa _Assassin's
**Władysław Raginis** (27 tháng 6 năm 1908 - 10 tháng 9 năm 1939) là một chỉ huy quân sự người Ba Lan trong Cuộc chiến Bảo vệ Ba Lan năm 1939. Ông là người chỉ
thế=Picture of schoolchildren doing sit-ups|nhỏ|Học sinh đang thực hiện tư thế _Sit-up_ (gập bụng), một bài tập Calisthenics, trong một ngày hội [[Khỏe mạnh thể chất|thể thao tại trường.]] Human flag, một kĩ thuật nâng
**Meet The Spartans** là một bộ phim nhái do hãng 20th Century Fox sản xuất, nó nhái theo phim 300 với những chi tiết vui nhộn hài hước và châm biến "Nạn nhân" của nó
thumb|upright=1.5|Pietas, là một đức tính của hoàng đế [[Antoninus Pius, được thể hiện bởi hình ảnh một người phụ nữ đang dâng lễ vật trên mặt sau của đồng sestertius này.]] thumb|Flavia Maximiana Theodora trên
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**HMS _Hotspur_ (H01)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939,
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại Đế** là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của
**Demosthenes** (; ; ; 384 TCN – 12 tháng 10 năm 322 TCN) là một chính khách và nhà hùng biện người Athens thời Hy Lạp cổ đại. Các bài hùng biện của ông đã trở
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Thành bang Athens** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀθῆναι, Athênai [atʰɛ̂ːnai̯]; tiếng Hy Lạp hiện đại: Αθήναι, Athine [aˈθine]) trong thời kỳ cổ điển của Hy Lạp cổ đại (480–323 TCN) là trung tâm đô
thumb|right|Eo biển Gibraltar là một vị trí án ngữ hải quân quan trọng, vì chỉ có một vài con tàu có thể chặn lối vào toàn bộ Biển Địa Trung Hải. **Vị trí án ngữ**
**Athens** (tên trong tiếng Anh, phiên âm: _A-then_, ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Hy Lạp, là một trong những thành phố cổ nhất thế giới với lịch sử được ghi
The **Narew** (; _Naraŭ_; tiếng Lithuania: _Narevas_), ở miền Tây Belarus và đông bắc Ba Lan, là một nhánh phải của sông Vistula. Narew là một trong ít dòng sông phân dòng ở châu Âu,
**Khai thác điều kiện tự nhiên trong quân sự** là việc vận dụng những điều kiện sẵn có của các yếu tố tự nhiên để tạo lợi thế trong chiến tranh. Việc này góp phần
thumb|Đền Hiếu đạo nằm ở phía tây của chợ rau La Mã và phía đông nam của Nhà hát Marcellus trong mô hình La Mã thời đế chế của Gismondi, Bảo tàng Văn minh La
**Mycenae** (Tiếng Hy Lạp Μυκῆναι _Mykēnai_) là một địa điểm khảo cổ tại Hy Lạp, nằm cách Athens khoảng 90 km về phía Tây Nam, ở phía Đông Bắc Peloponnese. Mycenae nằm ở vùng Argolis,
Những bộ lạc Celt, dưới sự lãnh đạo của các tù trưởng La Tene, đã bắt đầu **một cuộc di chuyển vào miền Đông-Nam bán đảo Balkan** từ thế kỷ thứ tư TCN. Mặc dù