✨Carol I của România

Carol I của România

Carol I của România (Tiếng Anh: Charles I, 20 tháng 4 năm 1839 - 10 tháng 10 năm 1914), là vị quân chủ thứ 2 của România từ năm 1866 đến khi qua đời vào năm 1914. Đầu tiên ông được bầu làm Thân vương (Domnitor) thứ 2 của Thân vương quốc România và sau đó, từ năm 1866 đến năm 1881 ông là vua đầu tiên của Vương quốc România khi thân vương quốc này được nâng lên thành vương quốc.

Trước khi được bầu làm thân vương của România, ông có tước hiệu là Thân vương tử Karl xứ Hohenzollern-Sigmaringen, gia tộc của ông là một nhánh phát tích từ Vương tộc Hohenzollern - chủ nhân của Vương quốc Phổ. Ngày 20/04/1866, sau khi vị thân vương đầu tiên của România là Alexandru Ioan Cuza bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính ngay tại cung điện, Thân vương tử Karl đã được bầu lên ngôi vị thân vương. Vào tháng 05/1877, Vương quốc Anh tuyên bố România là một quốc gia độc lập và có chủ quyền. Sự thất bại của Đế quốc Ottoman trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877-1878) đã đảm bảo nền độc lập và đưa România ra khỏi sự thần phục người Ottoman. Thân vương quốc România được nâng lên thành vương quốc, và Carol I trở thành vị vua đầu tiên của Nhà Hohenzollern-Sigmaringen cai trị vùng đất này. Gia tộc của Carol I cai trị România cho đến khi nền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa România được thiết lập vào năm 1947.

Dưới thời trị vì của mình, Carol I đã đích thân lãnh đạo quân đội Thân vương quốc România trong Chiến tranh Nga-Thổ và nắm quyền chỉ huy liên quân Nga-România trong cuộc bao vây Plevna. Sau cuộc chiến, România giành hoàn toàn độc lập khỏi Đế quốc Ottoman, được các cường quốc châu Âu công nhận thông qua Hiệp ước Berlin (1878), và giành được miền Nam Dobruja từ Vương quốc Bulgaria vào năm 1913. Đời sống chính trị được tổ chức xoay quanh 2 đảng Tự do và Bảo thủ đối trọng nhau. Dưới thời trị vì của Carol, ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng của România đã được cải thiện nhiều, nhưng quốc gia này vẫn có nền kinh tế tập trung vào nông nghiệp và tình hình của tầng lớp nông dân vẫn không được cải thiện, dẫn đến một cuộc nổi dậy lớn vào năm 1907 bị chính quyền đàn áp đẫm máu.

Ông kết hôn với Elisabeth xứ Wied tại Neuwied vào ngày 15/11/1869. Họ chỉ có một người con gái, đó là Vương nữ Maria, nhưng đã mất vào năm 3 tuổi. Carol không có thêm bất cứ một người con nào nữa, vì thế nên nhà vua đã chọn anh trai là Leopold làm người kế vị. Nhưng đến tháng 10/1880, Leopold từ bỏ quyền kế thừa ngai vàng để ủng hộ con trai mình là William, sáu năm sau đó, Wilhelm lại từ bỏ quyền kế vị để ủng hộ em trai mình, tương lai chính là Vua Ferdinand I của România.

Sau Chiến tranh giành độc lập, Carol đã cho đúc Vương miện Thép dùng cho các quân vương România, thay vì dùng vàng, ông đã dùng thép từ một khẩu đại bác mà quân đội România thu được từ quân Ottoman để đúc. Tất cả các vị vua sau Carol I đều đội Vương miện Thép khi đăng cơ.

Cuộc sống đầu đời

left|thumb|Thân vương tử Karl năm 6 tuổi Thân vương tử Karl Eitel Friedrich Zephyrinus Ludwig của Hohenzollern-Sigmaringen sinh vào ngày 20/04/1839 tại Sigmaringen. Ông là con trai thứ hai của Karl Anton I xứ Hohenzollern và Josephine xứ Baden. Sau khi hoàn thành bậc tiểu học, Karl vào Trường Thiếu sinh quân ở Münster. Năm 1857, ông theo học các khóa học của Trường Pháo binh ở Berlin. Trước khi được bầu làm thân vương của România, Thân vương tử Karl là một sĩ quan của Vương quốc Phổ. Ông tham gia Chiến tranh Schleswig lần thứ hai, bao gồm cả cuộc tấn công thành Fredericia và Dybbøl, đây là một kinh nghiệm rất hữu ích cho ông sau này trong cuộc Chiến Nga-Thổ Nhĩ Kỳ.

Mặc dù khá ốm yếu và không cao lắm, nhưng Thân vương tử Karl được cho là một người lính hoàn hảo, khỏe mạnh và có kỷ luật, đồng thời cũng là một chính trị gia rất giỏi với những tư tưởng tự do. Thân vương tử Karl có thể nói được nhiều ngôn ngữ châu Âu]] Nhà cai trị có công thống nhất România thành một thực thể chính là vị thân vương đầu tiên - Alexandru Ioan Cuza, nhưng ông đã bị các quý tộc của România làm cuộc đảo chính và trục xuất khỏi đất nước, khiến cho România rơi vào cảnh hỗn loạn về chính trị. Tiền thân của Thân vương quốc România là 2 lãnh thổ Wallachia và Moldavia, các lãnh thổ này tách biệt nhau, và nhờ có Alexandru Ioan Cuza mà chúng mới thống nhất lại. Khi ông ra đi, đất nước România có nguy cơ tan rã, vì Đế quốc Ottoman và các cường quốc khác ban đầu chỉ chấp nhận sự thống nhất này dưới triều đại của ông.

Khi các chính trị gia România tìm kiếm người thay thế Alexandru Ioan Cuza tiếp nhận ngai vàng România, Thân vương tử Karl không phải là lựa chọn đầu tiên của họ. Các quý tộc trong cuộc đảo chính chống Cuza đầu tiên là nhấm đến Philippe của Bỉ, Bá tước xứ Flandre, em trai của Léopold II của Bỉ, hy vọng rằng ông sẽ đưa các mô hình của Vương quốc Bỉ đến Hạ Danube và biến đất nước mới thống nhất thành một "Nước Bỉ của phương Đông". Sự lựa chọn này không được sự đồng ý của Napoléon III, Hoàng đế của Đệ Nhị Đế chế Pháp và lời mời này cũng bị Vương tử Philippe từ chối, trước đó ông cũng từng từ chối tiếp nhận ngai vàng của Hy Lạp.

Ngay sau đó Hoàng đế Napoleon III của Pháp đã đề nghị đưa Thân vương tử Karl, anh rể của Philippe tiếp nhận ngai vàng. Khuyến nghị của Napoléon có sức nặng với các chính trị gia România thời đó, vì România chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Pháp. Napoléon là người ủng hộ mạnh mẽ nền độc lập của România, với hy vọng củng cố ảnh hưởng của Pháp trên Biển Đen. Một yếu tố khác khiến điều này trở thành hiện thực là mối quan hệ huyết thống của Thân vương tử Karl với Nhà Hohenzollern, Hoàng tộc đang cai trị Vương quốc Phổ. Ion C. Brătianu là người được giới quý tộc România cử đến đàm phán với Thân vương tử Karl và gia đình của ông về kế hoạch đưa ông lên ngai vàng România.

Do xung đột chính trị giữa Vương quốc Phổ và Đế quốc Áo, nên Thân vương tử Karl đã di chuyển ẩn danh bằng đường sắt từ Düsseldorf đến Baziaș, qua Thụy Sĩ. Tại đây ông nhận được hộ chiếu Thụy Sĩ từ một nhân viên công vụ Thụy Sĩ, là người có mối quan hệ với gia đình ông, với cái tên Karl Hettingen. Vì không có đường sắt đến România nên ông đã đi thuyền từ Baziaș đến Turnu Severin. Khi băng qua biên giới để sang đất România, ông đã gặp Brătianu và lên xe ngựa đi cùng để đến thủ đô. Karl chính thức được bầu lên tiếp nhận ngôi vị Thân vương của România vào ngày 20/04.

Ngày 10/05/1866, ông đến thủ đô Bucharest. Tin tức về sự xuất hiện của ông đã được truyền đi bằng điện báo và tại nơi này ông đã được một đám đông chào đón nòng nhiệt. Tại Băneasa, Bucharest ông đã được trao chìa khoá của thủ đô. Hôm đó là một ngày mưa sau một thời gian dài hạn hán, vì thế mà người địa phương xem đây là một điềm lành. Khi lên ngôi, Karl đã tuyên thệ: "Tôi thề sẽ bảo vệ luật pháp của România, duy trì các quyền của Người dân và sự toàn vẹn của lãnh thổ." Ông đọc lời tuyên thệ này bằng tiếng Pháp vì lúc đó chưa nói được tiếng România. Trên thực tế, người ta nói rằng, trước khi được đề cử làm Vua của România, ông chưa bao giờ nghe nói về nơi này. Tuy nhiên sau đó ông mau chóng yêu quý đất nước România nơi mình cai trị, ông chọn vương hiệu là Carol I, được viết theo tiếng România, và ông cũng học nói tiếng România không lâu sau đó.

Gia phả

Trích dẫn

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Carol I của România** (Tiếng Anh: Charles I, 20 tháng 4 năm 1839 - 10 tháng 10 năm 1914), là vị quân chủ thứ 2 của România từ năm 1866 đến khi qua đời vào
**Ferdinand I** (_Ferdinand Viktor Albert Meinrad_; 24 tháng 8 năm 1865 – 20 tháng 7 năm 1927), biệt danh là Întregitorul ("Người thống nhất"), là Vua của Romania từ năm 1914 cho đến khi qua
**Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
**Carol II của România** (15 tháng 10 năm 1893 - ngày 4 tháng 4 năm 1953) là Vua Romania từ ngày 8 tháng 6 năm 1930 cho đến khi bị trục xuất vào ngày 6
thumb|right|Vương miện thép của các vua Romania từ năm 1881-1946 **Vương miện thép** (tiếng Romania: _Coroana de ote_) thuộc quyền sở hữu đầu tiên của Carol I, vua của Vương quốc România, nó được rèn
Các thành viên sáng lập Viện hàn lâm România năm 1867. Trụ sở Viện hàn lâm România **Viện hàn lâm România** () là một diễn đàn văn hóa của România, bao gồm các lãnh vực
**Vương quốc România** () là một nhà nước quân chủ lập hiến ở Đông Nam Âu, tồn tại từ năm 1881 khi hoàng tử Carol I của Hohenzollern-Sigmaringen lên ngôi vua, cho đến năm 1947,
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, România là một trong những thành viên tích cực nhất của Phe Trục. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào ngày 1 tháng 9
**_Maria vương hậu România_** (, ) là một bộ phim lịch sử do Alexis Cahill và Brigitte Drodtloff đạo diễn, xuất phẩm ngày 15 tháng 06 năm 2019 tại Trung Quốc và 08 tháng 11
**Marie của Sachsen-Coburg và Gotha** (tên khai sinh là **Marie Alexandra Victoria của Edinburgh**; ngày 29 tháng 10 năm 1875 – 18 tháng 7 năm 1938) là Vương hậu România với tư cách là vợ
**Elisabeth Gabriele của Bayern** (25 tháng 7 năm 1876 – 23 tháng 11 năm 1965), tên đầy đủ là _Elisabeth Gabriele Valérie Marie_, là vợ của Albert I của Bỉ. Bà là Vương hậu Bỉ
**România** (tiếng România: _România_ , trong tiếng Việt thường được gọi là **Rumani** theo ), là một quốc gia nằm tại đông nam châu Âu, với diện tích 238.391 km². România giáp với Ukraina và Moldova
**Chiến tranh giành độc lập România** là tên gọi được ngành sử học România sử dụng để nhắc đến cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877-1878), sau đó kéo theo România chiến đấu bên phía
**Alexandru Ioan Cuza** (Phiên âm: [alekˈsandru iˈo̯aŋ ˈkuza], hay **Alexandru Ioan I**, cũng được Anh hóa thành **Alexander John Cuza**; 20 tháng 3 năm 1820 – 15 tháng 5 năm 1873) là vị quân chủ
**Lịch sử của Romania** chịu ảnh hưởng mạnh bởi lịch sử, văn hóa của La Mã cổ đại. Lịch sử của România (là một quốc gia) bắt đầu vào năm 1859. Tuy nhiên, lịch sử
**Josephine xứ Baden** (tiếng Đức: _Josephine von Baden_; tiếng Pháp: _Joséphine de Bade_; tiếng Hà Lan: _Josefine van Baden_; tiếng Anh: _Josephine of Baden_; tên đầy đủ: _Josephine Friederike Luise_; 21 tháng 10 năm 1813
thumb|Budjak trên bản đồ Ukraina thumb|Pháo đài [[Bilhorod-Dnistrovskyi của Moldavia từ thế kỷ 14 tại Budjak.]] **Budjak** hay **Budzhak** (; ), là một khu vực có tính lịch sử tại Ukraina và Moldova. Khu vực
**Mary Victoria Hamilton**, còn được gọi là **Mary Victoria Douglas-Hamilton** (tiếng Anh: _Mary Victoria Hamilton_; tiếng Đức: _Maria Victoria Hamilton_; tiếng Hungary: _Mária Viktória Hamilton_; tiếng Pháp: _Marie Victoire Hamilton_; 11 tháng 12 năm 1850
**William Hamilton, Công tước thứ 12 xứ Hamilton, Công tước thứ 9 xứ Brandon, Công tước thứ 2 xứ Châtellerault, Bá tước thứ 7 xứ Selkirk** (12 tháng 3 năm 1845 tại Luân Đôn –
**Charles Hamilton, Bá tước thứ 7 xứ Selkirk** (18 tháng 5 năm 1847 – 2 tháng 5 năm 1886), là một quý tộc và sĩ quan người Scotland. Charles Hamilton là con trai thứ của
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
**Aikaterini của Hy Lạp và Đan Mạch** (; tiếng Anh: _Katherine of Greece and Denmark_; 4 tháng 5 năm 1913 – 2 tháng 10 năm 2007), được gọi ở Anh với danh hiệu **Phu nhân
**Marie Amelie xứ Baden** (tiếng Đức: _Marie Amelie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Maria Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Mary Amelia of Baden_; tên đầy đủ: _Marie Amelie Elisabeth Karoline_; 11 tháng 10 năm 1817
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
430x430px|thumb ## Sự kiện * 8 tháng 1 – Tia phóng xạ được sử dụng để điều trị ung thư. * 8 tháng 2 – Ký kết thỏa thuận giữa đế quốc Nga và đế
**Ion Antonescu** (; ; 14 tháng 6 [O.S. 2 tháng 6] 1882 – 1 tháng 6 năm 1946) là một sĩ quan quân đội và thống chế người Romania, ông đã chủ trì hai chế
**Nicolae Bălcescu** là một xã ở hạt Constanţa, România. Xã này có hai làng: * Nicolae Bălcescu (tên lịch sử: _Danachioi_, ; _Carol I_) - được đặt tên theo nhà sử học và nhà cách
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Ottokar Theobald Otto Maria _Graf_ Czernin von und zu Chudenitz** (; 26 tháng 9 năm 1872 – 4 tháng 4 năm 1932) là một nhà ngoại giao và chính khách Áo-Hung trong Thế chiến I,
**Dan D. Farcaș** (tên khai sinh: **Dezideriu Dan Farcaș**; sinh ngày 1 tháng 4 năm 1940 tại Reșița) là một nhà toán học, nhà khoa học máy tính, nhà văn, nhà nghiên cứu về hiện
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**Iosif Ivanovici** (còn viết là: **Jovan Ivanović**, **Ion Ivanovici**, **Josef Ivanovich**) (1845 – 28 tháng 9 năm 1902) là một nhà chỉ huy dàn nhạc quân đội và cũng là một nhà soạn nhạc người
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
**Thế vận hội** hay **Olympic** , còn có tên gọi cũ là _Thế giới vận động hội_, là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế
**Vương tôn Arthur xứ Connaught** (_Arthur Frederick Patrick Albert_; 13 tháng 1 năm 1883 – 12 tháng 9 năm 1938) là một thành viên của Vương Thất Anh và là sĩ quan quân đội Anh.
**Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein** (Auguste Viktoria Friederike Luise Feodora Jenny; 22 tháng 10 năm 1858 – 11 tháng 4 năm 1921) là Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ cuối cùng thông qua cuộc hôn
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,