✨Napoléon Bonaparte
Napoléon Bonaparte (tên khai sinh là Napoleone Buonaparte; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu Napoléon I, là một chỉ huy quân sự và nhà lãnh đạo chính trị người Pháp, đã trở nên nổi tiếng trong thời kỳ Cách mạng Pháp và lãnh đạo các chiến dịch thành công trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp. Ông là người lãnh đạo de facto của Cộng hòa Pháp với tư cách Tổng tài thứ nhất từ năm 1799 đến năm 1804, sau đó là Hoàng đế Pháp từ năm 1804 đến năm 1814 và trở lại ngai vàng vào năm 1815. Di sản chính trị và văn hóa của Napoléon vẫn tồn tại cho đến ngày nay, với tư cách là một nhà lãnh đạo nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ông khởi xướng nhiều cải cách tự do đã tồn tại lâu dài trong xã hội và được coi là một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Các chiến dịch của ông vẫn được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên thế giới. Trong thời gian diễn ra chiến tranh Napoléon, có khoảng từ ba đến sáu triệu dân thường và binh lính đã thiệt mạng.
Napoléon sinh ra trên đảo Corse, không lâu sau khi bị Pháp sáp nhập, trong một gia đình bản địa xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhỏ ở Ý. Ông ủng hộ Cách mạng Pháp năm 1789 trong khi đang phục vụ trong quân đội Pháp và cố gắng truyền bá lý tưởng của nó đến quê hương Corse của mình. Ông nhanh chóng thăng tiến trong quân đội sau khi cứu được Hội đồng Đốc chính Pháp bằng việc nổ súng trấn áp quân nổi dậy bảo hoàng. Năm 1796, ông bắt đầu chiến dịch quân sự chống lại người Áo và đồng minh Ý của họ, ghi điểm bằng những chiến thắng quyết định và trở thành một anh hùng dân tộc. Hai năm sau, ông dẫn đầu một cuộc viễn chinh quân sự tới Ai Cập, đóng vai trò như bàn đạp cho quyền lực chính trị. Ông đã dàn dựng một cuộc đảo chính vào tháng 11 năm 1799 và trở thành Tổng tài thứ nhất của nền Cộng hòa.
Sự khác biệt với Vương quốc Anh đã khiến Pháp phải đối mặt với Chiến tranh Liên minh thứ Ba vào năm 1805. Napoléon đã phá tan liên minh này bằng các chiến thắng trong chiến dịch Ulm và trận Austerlitz, dẫn đến sự tan rã của Đế quốc La Mã Thần thánh. Năm 1806, Liên minh thứ Tư đã cầm vũ khí chống lại ông. Napoléon hạ gục Phổ trong các trận Jena và Auerstedt, dẫn dắt đoàn quân Grande Armée vào Đông Âu và đánh bại Nga vào tháng 6 năm 1807 tại Friedland. Thắng lợi này đã buộc các quốc gia bại trận của Liên minh thứ Tư phải chấp nhận Hiệp ước Tilsit. Hai năm sau đó, người Áo lại thách thức Pháp một lần nữa trong Chiến tranh Liên minh thứ Năm, nhưng Napoleon đã củng cố sự kiểm soát của mình đối với châu Âu sau chiến thắng trong trận Wagram.
Với hy vọng mở rộng Hệ thống Lục địa, lệnh cấm vận của ông nhằm vào nước Anh, Napoléon xâm chiếm bán đảo Iberia và tuyên bố anh trai mình là Joseph làm Vua Tây Ban Nha vào năm 1808. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nổi dậy trong Chiến tranh Bán đảo với sự hỗ trợ của quân đội Anh, dẫn đến thất bại của các tướng lĩnh dưới trướng Napoléon. Napoléon phát động cuộc xâm lược nước Nga vào mùa hè năm 1812. Kết quả của chiến dịch này chứng kiến cuộc rút lui thảm khốc của Grande Armée. Năm 1813, Phổ và Áo cùng với lực lượng Nga gia nhập Liên minh thứ Sáu chống lại Pháp, dẫn đến một đội quân liên minh lớn đánh bại Napoléon tại trận Leipzig. Liên quân xâm lược Pháp và chiếm được Paris, buộc Napoléon phải thoái vị vào tháng 4 năm 1814. Ông bị lưu đày đến đảo Elba, nằm giữa Corse và Ý. Ở Pháp, dòng họ Bourbon đã được khôi phục quyền lực.
Napoléon trốn thoát vào tháng 2 năm 1815 và nắm quyền kiểm soát nước Pháp. Đồng minh phản ứng bằng việc hình thành Liên minh thứ Bảy, đánh bại Napoléon trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Người Anh đã lưu đày ông đến đảo Saint Helena xa xôi ở Đại Tây Dương, nơi ông qua đời vào năm 1821, thọ 51 tuổi.
Napoléon đã có ảnh hưởng sâu rộng đến thế giới hiện đại, mang đến các cải cách tự do cho các vùng đất ông chinh phục, đặc biệt là những vùng đất ở Các quốc gia vùng đất thấp, một phần nước Ý và Đức hiện đại. Ông thi hành nhiều chính sách khai phóng ở Pháp và Tây Âu.
Đầu đời
thumb|Cha của Napoléon, [[Carlo Buonaparte, là đại diện của Corse trước triều đình Louis XVI.]]
Napoléon Bonaparte là con thứ hai trong một gia đình có tám người con, chào đời tại dinh thự "Casa Buonaparte" ở thị trấn Ajaccio, đảo Corse vào ngày 15 tháng 8 năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Cộng hòa Genova chuyển giao cho Pháp. Ông được đặt tên thánh là Napoleone di Buonaparte, theo tên một người chú (trước đó ông bà Bonaparte đã có một con trai đặt tên là Napoleone nhưng đã mất sớm). Ở tuổi 20, ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn.
Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia, những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ XVI. Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse trước triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng lớn đến Napoléon trong suốt thời thơ ấu là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỷ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch.
thumb|Tượng Napoléon khi còn là một học sinh ở [[Brienne, 15 tuổi]]
Ông có một anh trai là Joseph và sáu người em là Lucien, Elisa, Louis, Pauline, Caroline và Jérôme. Có hai đứa trẻ khác, một trai một gái được sinh trước Joseph nhưng chết yểu. Napoléon được rửa tội như một người Công giáo ngay trước sinh nhật hai tuổi của mình, vào ngày 21 tháng 7 năm 1771 tại nhà thờ Ajaccio.
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng với các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó. Tháng 1 năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng 5, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château. điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc học. Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon "luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ là một thủy thủ xuất sắc". Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École Militaire ở Paris. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc xin vào Hải quân Hoàng gia Anh. Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh. Cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc Napoléon phải hoàn thành khóa học hai năm trong vòng một năm. Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp École Militaire.
Khởi đầu sự nghiệp
thumb|Napoléon Bonaparte, 23 tuổi, là trung tá của một tiểu đoàn [[Vệ binh quốc gia (Pháp)|quân tình nguyện Cộng hòa Corse. Tranh chân dung do Henri Félix Emmanuel Philippoteaux vẽ.]]
Khi tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1785, Bonaparte được phong hàm trung úy ở trung đoàn pháo binh La Fère.
Ông trải qua những năm đầu Cách mạng ở Corse, chiến đấu trong một cuộc xung đột phức tạp ba bên giữa những người bảo hoàng, những người cách mạng, và những người dân tộc chủ nghĩa Corse. Ông ủng hộ phái cách mạng Jacobin, nhận hàm trung tá trong đoàn dân quân Corse, và chỉ huy một tiểu đoàn quân tình nguyện. Mặc dù quá thời gian nghỉ phép vắng mặt và lãnh đạo một cuộc bạo động chống lại quân đội Pháp ở Corse, ông vẫn được thăng hàm đại úy trong quân đội chính quy Pháp tháng 7 năm 1792.
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mâu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính. Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng 6 năm 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli.
Cuộc vây hãm Toulon
thumb|Tướng Bonaparte trong trận [[Toulon]] Tháng 6 năm 1793, Napoléon đã xuất bản một cuốn sách nhỏ có khuynh hướng thân cộng hòa, Le Souper de Beaucaire (Bữa tối ở Beaucaire), thứ đem lại cho ông sự khâm phục và ủng hộ của Augustin Robespierre, em trai nhà lãnh đạo cách mạng Maximilien Robespierre. Với sự giúp đỡ của một đồng đội người Corse là Antoine Christophe Saliceti, Bonaparte được bổ nhiệm làm chỉ huy pháo binh của quân đội cộng hòa trong cuộc vây hãm Toulon. Thành phố này nổi dậy chống chính phủ cộng hòa và được quân Anh đóng giữ.
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Thiếu tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh tại Tập đoàn quân Ý của Pháp.
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất. Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức.
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng 4 năm 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải Oneglia và Loano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp. Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genova để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp. Sau một lời biện hộ sôi nổi trong một lá thư mà Bonaparte gửi gấp tới các đặc phái viên Saliceti và Albitte, ông được tha bổng mọi tội.
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia.
Tháng 4 năm 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles. Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh — mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức.
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng nhất về mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée. Ngày 15 tháng 9, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình.
Ngày 3 tháng 10, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính.
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào ngày 5 tháng 10 năm 1795 hay 13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui.
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm Trung tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Tập đoàn quân Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông.
Chiến dịch Ý thứ nhất
thumb|Bonaparte trên Cầu Arcole, vẽ bởi Nam tước [[Antoine-Jean Gros, (khoảng 1801), Bảo tàng Louvre, Paris.]] Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia.
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Roma và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng 3 năm 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venezia và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Thánh Mác-cô.
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối".
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp với mưu trá từ đó nắm thế chủ động bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt ở mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia. Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu. Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte.
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài. Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào ngày 4 tháng 9, sự kiện này sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, Bonaparte trở lại Paris tháng 12 như một anh hùng. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp — người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh.
Napoléon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng ngay sau khi mình chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ. Theo một bản tường trình tháng 2 năm 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh".
thumb|Bức Bonaparte trước [[Nhân sư (khoảng 1868) của Jean-Léon Gérôme, Lâu đài Hearst]] Tháng 5 năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167 nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809.
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng 6 năm 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ.
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng 7 ở Alexandria, so với gần 2000 quân Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp.
thumb|Bức Trận Kim tự tháp ngày 21 tháng 7 năm 1798 bởi [[Louis-François, Baron Lejeune, 1808]] Ngày 1 tháng 8, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt giữ và tiêu diệt gần như tất cả quân Pháp chỉ trừ hai chiếc tàu trong trận sông Nile, mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải tan vỡ. Đầu năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (Syria và Galilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa. Cuộc tấn công vào Jaffa đặc biệt đẫm máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những người bảo vệ thành phố là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không trả thù để được tha, đã ra lệnh xử tử quân phòng thủ cùng 1.400 người khác bằng lưỡi lê và dìm chết đuối để tiết kiệm đạn. Đàn ông, đàn bà kể cả trẻ con đã bị cướp giật và giết hại trong ba ngày.
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Akko và trở lại Ai Cập vào tháng 5. Tuy nhiên, những người Anh chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc. Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng 7, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir.
Nhà cai trị nước Pháp
thumb|Tướng Bonaparte bị bao vây bởi các thành viên của Hội đồng Năm trăm trong cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, tranh của [[François Bouchot.]]
Khi ở Ai Cập, Bonaparte vẫn nhận được thông báo về sự vụ châu Âu thông qua các báo chí và thông điệp được chuyển tới không đều đặn. Ông biết rằng Pháp đã phải chịu một chuỗi những thất bại trong Chiến tranh Liên minh thứ hai. Ngày 24 tháng 8 năm 1799, ông lợi dụng sự rút lui tạm thời các tàu Anh khỏi các cảng Pháp để giong buồm về nước, bất chấp sự kiện là ông không nhận được mệnh lệnh rõ ràng nào từ Paris.
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông. Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông. Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lý chính quyền. Điều này khiến cho Bonaparte trở thành con người quyền lực nhất ở Pháp. Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định.
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được ký vào tháng 2 năm 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường
Nền hòa bình tạm thời cho châu Âu
thumb|[[Vùng đất mua Louisiana|Giao kèo Louisiana vào năm 1803 có tổng diện tích là , gấp đôi diện tích của Hoa Kỳ..]]
Cả Pháp lẫn Anh đã trở nên mệt mỏi với chiến tranh và ký với nhau Hiệp ước Amiens vào tháng 10 năm 1801 và tháng 3 năm 1802. Điều này đòi hỏi sự triệt thoái quân đội Anh khỏi hầu hết các thuộc địa họ chiếm gần đó. Sự tranh cãi đạt đến đỉnh điểm và kết thúc bằng một tuyên bố chiến tranh của người Anh vào tháng 5 năm 1803, và Napoléon tái lập căn cứ xâm lược ở Boulougne. Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diệt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint Louverture và Jean-Jacques Dessalines. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy không thể bảo vệ được những thuộc địa của Pháp ở lục địa Bắc Mĩ và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ — Vụ mua bán Louisiana — với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta).
Đế quốc Pháp
Napoléon phải đương đầu với những âm mưu của phe bảo hoàng và Jacobin, bao gồm các Âm mưu dao găm vào tháng 10 năm 1800 và Âm mưu Phố Saint-Nicaise hai tháng sau, đều nhắm vào ám sát cá nhân ông. Tháng 1 năm 1804, cảnh sát khám phá một kế hoạch ám sát ông có can dự tới Moreau và dường như được nhà Bourbon thúc đẩy. Theo lời khuyên của Talleyrand, Napoléon ra lệnh bắt cóc Louis Antoine, Công tước xứ Enghien trong một cuộc đột nhập vào lãnh thổ Bá quốc Baden láng giềng. Sau một phiên xử bí mật Công tước bị hành hình, mặc dù ông không tham gia vào âm mưu. [[Lễ đăng quang của Napoléon được vẽ bởi Jacques-Louis David (1804)]]
Napoléon sử dụng âm mưu trên để biện hộ cho sự tái lập của nền quân chủ cha truyền con nối ở Pháp, mà chính ông là Hoàng đế, với lập luận rằng sự phục hồi đáng lo ngại của nhà Bourbon sẽ khó khăn hơn nếu sự thừa kế nhà Bonaparte được ghi nhận bởi hiến pháp. Trong một cử chỉ có tính hình thức, Thượng viện Pháp yêu cầu ông lên ngôi Hoàng đế để "bảo vệ nền Cộng hòa". Napoléon tự đội đế miện với hiệu Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris và sau đó trao miện Hoàng hậu cho Joséphin dưới sự chứng kiến của Giáo hoàng Piô VII. Ludwig van Beethoven, một người hâm mộ từ lâu của ông, đã thất vọng vì sự quay sang chủ nghĩa đế quốc này và xóa lời đề tặng Napoléon trong Giao hưởng số 3 của mình.
Tại Nhà thờ Milano vào ngày 26 tháng 5 năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardia. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế quốc từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.
Chiến tranh liên minh thứ ba
thumb|Napoléon trong trận Austerlitz, vẽ bởi [[François Gérard năm 1805. Trận Austerlitz, cũng được biết với tên trận Ba Hoàng đế, được xem là chiến thắng vĩ đại nhất của Napoléon, nơi Đế quốc Pháp đã đánh tan thành công Liên minh thứ ba.]]
Nước Anh phá vỡ Hòa ước Amiens và tuyên chiến với Pháp vào tháng 5 năm 1803. Napoléon thiết lập doanh trại ở Boulogne-sur-Mer để chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Anh. Đến năm 1805, Anh đã thuyết phục được Áo và Nga tham gia vào một Liên minh thứ ba chống Pháp. Napoléon biết rằng hạm đội Pháp không thể đánh bại Hải quân Hoàng gia trong một trận chiến mặt đối mặt và lập kế hoạch nhử họ ra khỏi Eo biển Anh.
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh.
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bayern, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng 10 năm 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển.
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27000 người, gấp 3 lần quân Pháp. Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ" . Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ công. Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoléon". Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp".
Các đồng minh Trung Đông
thumb|Công sứ Ba Tư Mirza Mohammed Reza-Qazvini gặp Napoléon I tại [[Dinh Finckenstein, 27 tháng 4 năm 1807, bởi François Mulard.]]
Ngay cả sau chiến dịch ở Ai Cập, Napoléon vẫn tiếp tục ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập một sự hiện diện của Pháp ở Trung Đông.
Napoléon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất.
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ năm 1807 đến năm 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu. Ông hành quân vượt Ba Lan để đương đầu với quân Nga đang tiến sang và hai bên đụng độ đẫm máu tại trận Eylau ngày 6 tháng 2 năm 1807 nhưng bất phân thắng bại.
Ngày 14 tháng 6 năm 1807, Napoléon lại đụng trận với quân đội Nga ở Friedland. Quân Pháp thắng lớn, chỉ thương vong khoảng 10.000 người mà loại ít nhất 30.000 quân Nga khỏi vòng chiến. Sau đó ông ký kết Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westphalia mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen.
Với các chiếu chỉ Milano và chiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại.
Chiến tranh Bán đảo
Vì Bồ Đào Nha không tuân theo lệnh phong tỏa lục địa nên Napoléon phải cất quân chinh phạt vào năm 1807 với sự hỗ trợ của Tây Ban Nha. Dưới chiêu bài tăng cường cho quân đội Pháp - Tây Ban Nha chiếm đóng Bồ Đào Nha, Napoléon xâm lược luôn cả Tây Ban Nha, phế Carlos IV rồi đưa anh trai của mình là Joseph Bonaparte lên ngôi, đồng thời đặt em vợ là Joachim Murat lên cầm quyền thay Joseph ở Napoli. Điều này đã dẫn đến sự kháng cự mạnh mẽ của quân đội và thường dân Tây Ban Nha gây nên cuộc khởi nghĩa Dos de Mayo.
thumb|phải|Ngày thứ 2 tháng 5 năm 1808, quân Mamluk xung kích, một bức họa của [[Francisco Goya]] Ở Tây Ban Nha, Napoléon còn phải đối mặt với một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh du kích, trong đó cư dân địa phương, hưởng ứng chủ nghĩa ái quốc và tinh thần tôn giáo, tham gia vào cuộc chiến. Loại hình bước đầu của chiến tranh nhân dân này bao gồm nhiều hình thức chiến đấu cường độ thấp (quấy rối, phá hoại, nổi dậy vũ trang...) và trợ giúp cho quân đội chính quy những nước đồng minh với Tây Ban Nha. Sau khi quân Pháp đồn trú buộc phải rút khỏi nhiều phần đất nước này, Napoléon nắm quyền chỉ huy trực tiếp, đánh bại quân Tây Ban Nha. Ông chiếm lại Madrid, đánh bật một đội quân Anh tới cứu viện và đẩy lui họ khỏi bờ biển . Tuy vậy, trước khi người dân Tây Ban Nha chịu khuất phục hoàn toàn, nước Áo lại đe dọa chiến tranh, buộc Napoléon phải quay về Pháp..
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng. Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu.
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814. Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó".
Chiến tranh Liên minh thứ năm và tái hôn
Tháng 4 năm 1809, Áo bất ngờ phá vỡ liên minh với Pháp, tham gia vào Liên minh thứ năm chống Pháp. Napoléon buộc phải nắm quyền chỉ huy các lực lượng ở mặt trận Danube và Đức. Sau những thắng lợi ban đầu, quân Pháp vấp phải khó khăn trong việc vượt qua sông Donau và thất bại vào tháng Năm trong trận Aspern-Essling gần Viên. Người Áo đã bỏ lỡ lợi dụng tình thế, để cho Napoléon có thể tập hợp lại lực lượng. Ông đánh bại quân Áo trong trận Wagram, và Hiệp ước Schönbrunn được ký giữa Pháp và Áo. Tuy thắng lợi nhưng thiệt hại nặng nề trong trận Wagram đã chứng tỏ những suy sút của quân đội Pháp.
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển. Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện.
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon đã bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết được sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, tuy nhiên Piô đều từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với Nữ Đại vương công Maria Ludovica của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới. Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Roma cho đến tháng 5 năm 1814.
thumb|[[Đế chế thứ nhất|Đệ Nhất Đế chế Pháp có quy mô rộng nhất vào năm 1811]]
Napoléon chấp nhận việc Bernadotte, một trong các thống chế của ông được bầu làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển vào tháng 11 năm 1810. Ông thường chiều Bernadotte bất chấp những sơ suất của viên tướng này vì Bernadotte cưới hôn thê cũ của ông là Désirée Clary nhưng về sau hối hận cả đời khi Bernadotte đem Thụy Điển liên minh với các kẻ thù của Pháp trong Liên minh thứ sáu và trở thành một trong những đối thủ đáng ngại nhất của ông
Xâm lược nước Nga
Hội nghị Erfurt được tổ chức nhằm bảo vệ mối đồng minh Nga-Pháp, và các hoàng đế Pháp và Nga đã có một mối quan hệ cá nhân thân thiện sau cuộc họp đầu tiên ở Tilsit năm 1807. Tuy nhiên tới năm 1811, căng thẳng gia tăng và Alexander chịu sức ép từ giới quý tộc Nga đòi phá vỡ đồng minh. Dấu hiệu ban đầu rằng mối quan hệ đã biến đổi là sự chối bỏ trên thực tế Hệ thống Lục địa, điều khiến Napoléon đe dọa Aleksandr nhiều hậu quả thảm khốc nếu ông lập quan hệ đồng minh với người Anh.
Đến năm 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính. Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng 6 năm 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu.
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ hai. Chiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử thậm tệ đối với lính Pháp khi họ rút chạy. thumb|Napoléon rút khỏi Nga, tranh của [[Adolph Northen.]]
Người Nga từ chối mục tiêu của Napoléon về một trận giao chiến quyết định, thay vào đó thoái lui ngày càng sâu vào lãnh thổ Nga. Một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi được thực hiện ở Smolensk vào tháng Tám; người Nga bị đánh bại trong một loạt trận, và Napoléon tiếp tục tiến công. Người Nga vẫn trì hoãn đánh nhau, mặc dù trong một vài trường hợp điều này chỉ đạt được do sự ngần ngừ ít thấy ở Napoléon khi cơ hội tới. Do chiến thuật tiêu thổ của quân Nga, người Pháp cảm thấy ngày càng khó để tìm kiếm thức ăn cho bản thân và cho ngựa.
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva. Ngày 7 tháng 9: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó. Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại".
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, trông đợi việc Moskva thất thủ sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin ra lệnh đốt cháy Moskva chứ không đầu hàng. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui.
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga. Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng 11 năm 1812. Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng.
Chiến tranh Liên minh thứ sáu
Adieux de Napoléon à la Garde impériale dans la cour du Cheval-Blanc du château de Fontainebleau (Napoléon từ biệt Cận vệ Đế chế ở sân Bạch Mã của [[Cung điện Fontainebleau) – ngày 20 tháng 4 năm 1814. Tranh của Antoine Alphonse Montfort, Bảo tàng quốc gia Cung điện Versailles.]]
Có một thời gian tạm lắng chiến sự trong mùa đông 1812–1813 khi cả người Nga lẫn người Pháp đang tái xây dựng lực lượng; Napoléon sau đó có thể tung ra chiến trường 350.000 quân. Được cổ vũ bởi thất bại của Pháp tại Nga, Phổ liên hợp với Áo, Thụy Điển, Nga, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong một liên minh mới. Napoléon nắm quyền chỉ huy ở mặt trận Đức và giáng cho Liên minh một chuỗi trận thua bao gồm thảm bại ở trận Dresden vào tháng 8 năm 1813.
Bất chấp những thắng lợi này, tình thế tiếp tục ngày càng chống lại Napoléon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó khiến cho 90.000 người thương vong.
Napoléon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70.000 lính và 40.000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần. Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày, tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại Laon và Arcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng 3 năm 1814.
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến. Ngày 4 tháng 4, Thống chế Ney lãnh đạo lật đổ Napoléon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài việc thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con nhưng Liên minh từ chối điều này, Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng 4.
Lưu đày tại Elba
Biếm họa (tranh khắc axit) của Anh từ năm 1814 về buổi lễ lưu đày lần thứ nhất của Napoléon tới Elba vào thời điểm chấm dứt Chiến tranh Liên minh thứ sáu.
Trong Hiệp ước Fontainebleau, những người chiến thắng đày ông tới Elba, một hòn đảo 12 000 dân ở Địa Trung Hải, cách bờ biển Toscana 20 km. Họ cho ông quyền cai trị hòn đảo với tư cách Thân vương xứ Elba và cho phép ông giữ lại danh hiệu hoàng đế. Napoléon đã định tự tử bằng viên thuốc mà ông mang theo mình kể từ một lần suýt bị người Nga bắt được trong đợt rút lui khỏi Moskva. Tuy nhiên độc tính của nó đã giảm sau vài năm, và Napoléon sống sót. Ông chấp nhận lưu đày, trong khi vợ và con trai tìm sự nương náu ở nước Áo. Trong vài tháng đầu ở Elba ông đã tạo dựng một đội quân và cả một lực lượng hải quân nhỏ trên đảo, phát triển các mỏ sắt, và ra những sắc lệnh liên quan đến phương thức canh tác nông nghiệp hiện đại.
Triều đại Một trăm ngày
Napoléon trở về từ Elba, tranh của Karl Stenben, thế kỷ XIX. Dù bị chia cắt khỏi vợ và con trai, những người đã chịu sự kiểm soát của nước Áo, bị cắt khoản trợ cấp được đảm bảo cho ông bởi Hiệp ước Fontainebleau, và dấy lên những tin đồn ông dường như bị trục xuất tới một hòn đảo xa xôi ở Đại Tây Dương, Napoléon trốn khỏi Elba ngày 26 tháng 2 năm 1815. Ông cập bến ở Golfe-Juan trên đất liền Pháp, hai ngày sau đó.
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng 3 năm 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn".
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Đại hội Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 150.000 quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông.
Napoléon đến Paris ngày 20 tháng 3 và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng 6 lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200.000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, nay là Bỉ.
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoléon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu với quân số một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông bị ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chúng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm ngày 15 tháng 7 năm 1815.
Lưu đày ở Saint Helena
thumb|Napoléon trên đảo Saint Helena, tranh màu nước của Franz Josef Sandmann, . thumb|[[Longwood House, Saint Helena, nơi Napoléon bị giam giữ.]] Napoléon bị tống giam và sau đó lưu đày tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi . Trong hai tháng đầu tiên ở đây, ông sống trong một căn lều ở khu đất Briars thuộc về một người tên William Balcombe. Napoléon trở nên gần gũi với gia đình này, đặc biệt với cô con gái út tên Lucia Elizabeth, người về sau viết cuốn Những hồi ức về Hoàng đế Napoléon. Tình bạn này bị chia cắt vào năm 1818 khi chính quyền Anh bắt đầu nghi ngờ rằng Balcombe đóng vai một người trung gian giữa Napoléon và Paris và đuổi ông này khỏi đảo.
Napoléon chuyển tới Longwood House vào tháng 12 năm 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư hỏng, ẩm ướt và gió lùa, gây hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe.
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi ký và lên án những người giam giữ ông — đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn. Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình Luân Đôn. Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh: Nam tước Holland có một bài diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn nào. Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ từ Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821.
Có những âm mưu khác để giải thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grande Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai. Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dấy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh.
Qua đời và an táng
thumb|Thi hài của Napoléon cập bến Courbevoie.
Ngay từ cuối năm 1817, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Bác sĩ riêng của Napoléon, Barry O'Meara, cảnh báo chính quyền về tình trạng sức khỏe suy giảm của người tù mà nguyên nhân chính, theo ông, là sự đối xử khắc nghiệt của viên "cai ngục", Lowe, buộc Napoléon giam thân hàng tháng trời trong nơi cư trú hư hỏng và ẩm ướt Longwood. O'Meara có một liên lạc thư từ bí mật với một thư ký ở Bộ Hải quân Anh, được biết rằng những lá thư này được đọc bởi lãnh đạo cao cấp: ông hi vọng, bằng cách này, cảnh báo chính phủ, nhưng thực tế không đem lại điều gì. Đã vậy, O'Meara còn bị thuyên chuyển đi nơi khác, thay thế bằng một bác sĩ gốc đảo Corse tên là Francesco Antommarchi.
Tháng 2 năm 1821, sức khỏe Napoléon nhanh chóng trở nên suy sụp, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng 5, hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều thuốc giảm đau. Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine).
Ngày 15 tháng 12, lễ quốc tang được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ được thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được an táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides. Cha của Napoléon cũng qua đời vì ung thư dạ dày nhưng điều này dường như không được biết vào thời điểm mổ tử thi. Antommarchi tìm thấy bằng chứng về một vết loét dạ dày, và đây là cách giải thích tiện lợi nhất đối với chính phủ Anh, những người muốn tránh sự chỉ trích về việc chăm sóc vị hoàng đế Pháp.
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoléon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp.
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hydride, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác. Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoléon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời. Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte.
Bộ luật dân sự của Napoléon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoléon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự được thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng.
Trong số các cải cách của Napoléon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoléon, xem phần Di sản.
Bộ luật Napoléon
Trang đầu của ấn bản gốc năm 1804 của Bộ luật Dân sự Pháp. Bộ luật Napoléon được tiếp nhận trên phần lớn châu Âu, dù chỉ trong những vùng đất ông chinh phục được, và được duy trì ngay cả sau thất bại của ông. Napoléon từng nói: "Vinh quang thực sự của tôi không phải là thắng 40 trận chiến...Waterloo sẽ xóa sạch ký ức về rất nhiều chiến thắng như vậy.... Nhưng...thứ sẽ tồn tại mãi mãi, đó là Bộ luật Dân sự của tôi". Bộ luật vẫn có tầm quan trọng ngày nay trên một phần tư hệ thống luật thế giới bao gồm ở châu Âu, châu Mỹ và châu Phi.
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871.
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoléon. Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộc và quốc gia dân tộc.
Hệ thống đo lường
Việc ban hành chính thức hệ thống đo lường vào tháng 9 năm 1799 không được biết đến nhiều trong nhiều tầng lớp xã hội Pháp, và nền cai trị của Napoléon đã khuyến khích mạnh mẽ sự tiếp nhận những tiêu chuẩn mới không chỉ trên nước Pháp mà cả những lãnh thổ trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp. Napoléon rốt cục lại có một bước đi thụt lùi vào 1812 khi ông thông qua đạo luật giới thiệu mesures usuelles (những đơn vị đo lường truyền thống) cho các giao dịch bán lẻ — một hệ thống đo lường tương tự những đơn vị trước Cách mạng nhưng dựa trên kilôgam và mét; chẳng hạn như "bảng hệ mét" (livre metrique) bằng 500 g thay vì 489.5 g—giá trị livre du roi (bảng nhà vua). Các đơn vị khác quay trở lại theo cách tương tự. Dù vậy điều này ít nhất đã thiết lập cơ sở để đưa ra dứt khoát hệ mét trên khắp châu Âu vào giữa thế kỷ XIX.
Napoléon và tôn giáo
Lễ rửa tội của Napoléon diễn ra ở Ajaccio ngày 21 tháng 7 năm 1771; ông được nuôi dưỡng trong một gia đình ngoan đạo và tiếp nhận một nền giáo dục Công giáo. Tuy nhiên, các thầy giáo của ông đã thất bại trong việc đem lại niềm tin tôn giáo cho ông khi còn nhỏ. Khi trưởng thành, Napoléon được miêu tả như một người "hữu thần với niềm tin và sự tôn kính không tự nguyện với Công giáo". Ông chưa bao giờ tin vào một vị Chúa hiện hữu; thượng đế với ông là một vị Chúa vắng mặt và xa xôi.
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho Bretagne và Vendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. Nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon".
Napoléon đã tự đội vương