✨Joseph Bonaparte

Joseph Bonaparte

Joseph-Napoleon Bonaparte (7 tháng 1 năm 1768 – 28 tháng 7 năm 1844) là một luật sư, chính trị gia dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Pháp, và là một quý tộc, nhà cai trị dưới thời Đệ Nhất Đế chế Pháp. Sau khi em trai của ông là Napoleon Bonaparte lên ngôi hoàng đế, ông được nâng lên hàng thân vương trong Hoàng tộc Bonaparte và trở thành một cánh tay đắc lực trong các kế hoạch bá quyền của Hoàng đế Napoleon. Joseph đã được em trai của mình đưa lên ngôi vua của Vương quốc Napoli và Sicilia (1806-1808), sau đó là vua Tây Ban Nha và Tây Ấn (1808-1813).

Ông được đánh giá là một nhà cai trị tốt nhất của Chủ nghĩa chuyên chế Khai sáng (Enlightened absolutism) khi giữ ngai vàng của Napoli và Sicilia, được người dân yêu quý và để lại nhiều thành tựu cho vương quốc này. Tuy nhiên, sau khi ông được em trai đưa lên ngai vàng Tây Ban Nha thì chính cuộc Chiến tranh Bán đảo và người Tây Ban Nha không ủng hộ đã làm cho hình ảnh của Joseph bị hoen ố. Ông luôn hoài niệm và luyến tiếc về những năm tháng hoàng kim cai trị ở Bán đảo Ý.

Sau sự sụp đổ của Napoleon, Joseph trở về Pháp, tự xưng là Bá tước xứ Survilliers. Ông di cư đến Hoa Kỳ, định cư gần Bordentown, New Jersey trên một điền trang nhìn ra sông Delaware, gần Philadelphia.. Về sau ông trở lại châu Âu và chết ở Florence, Ý, thi hài được táng tại Điện Invalides.

=Những năm đầu đời và cuộc sống cá nhân= Joseph sinh năm 1768 tại Corte, thủ phủ của Cộng hòa Corse, cha ông là Carlo Buonaparte và mẹ là Maria Letizia Ramolino. Vào năm ông sinh ra đời, Đảo Corsica bị người Pháp xâm lược và chinh phục vào 1 năm sau đó. Cha của ông ban đầu là người đấu tranh cho nền độc lập của Corsica do Pasquale Paoli đề xướng, nhưng sau đó ông quay đầu để trở thành người ủng hộ sự cai trị của người Pháp tại xứ Corsica.

Joseph Bonaparte được đào tạo để trở thành một luật sư và chính trị gia, ông đã phục vụ tại Cinq-Cents (Hạ viện) và với tư cách là đại sứ Pháp tại Rome. Ngày 30/09/1800, với tư cách Công sứ Đặc mệnh Toàn quyền, ông đã ký một hiệp ước hữu nghị và thương mại giữa Đệ nhất Cộng hoà Pháp với Hoa Kỳ tại Morfontaine, cùng với Charles Pierre Claret de Fleurieu và Pierre Louis Roederer.

Năm 1795, Joseph Bonaparte là thành viên của Hội đồng Trưởng lão (Thượng viện). Bốn năm sau, ông sử dụng chức vụ tại Thượng viện để giúp em trai của ông là Napoleon Bonaparte thực hiện đảo chính, lật đổ chế độ Đốc chính.

=Vua của Napoli=

thumb| Nước Ý thời Napoléon năm 1810, với [[Vương quốc Napoli cũng ở mức độ tương tự dưới thời Joseph (1806 - 1808)]] thumb|[[Julie Clary, Hoàng hậu của Napoli, với con gái Zenaide Bonaparte năm 1807, được vẽ bởi Robert Lefèvre]]

Năm 1805, chiến tranh giữa Pháp và Áo bùng nổ, vua Ferdinando I của Napoli đã đồng ý một hiệp ước trung lập với Hoàng đế Napoleon I, nhưng vài ngày sau, vị vua này lại lật lọng, tuyên bố ủng hộ Đế quốc Áo. Ông cho phép một lực lượng lớn liên quân Anh-Nga đổ bộ vào vương quốc của mình. Tuy nhiên, đội quân của Napoleon đã sớm dành chiến thắng. Sau khi Chiến tranh của Liên minh thứ Ba thất bại vào ngày 05/12, trong Trận Austerlitz, vua Ferdinand của Napoli đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Hoàng đế Napoleon.

Vào ngày 27/12/1805, tại Dinh Schönbrunn ở thủ đô Viên, Napoléon đã đưa ra một tuyên bố rằng vua Ferdinand của Napoli đã từ bỏ vương quốc của mình. Ông tuyên bố một cuộc xâm lược của Pháp sẽ sớm xảy ra để đảm bảo rằng 'những quốc gia tốt nhất là được giải phóng khỏi ách thống trị của những người thiếu đức tin'

Ngày 31/12, Hoàng đế Napoleon ra lệnh cho anh trai mình là Joseph di chuyển đến Rome để chỉ huy quân đội Pháp, hành quần đến trước đó để phế bỏ ngai vàng của Ferdinando I. Tuy Joseph Bonaparte trên danh nghĩa là người có quyền hành cao nhất, nhưng trên thực tế thì Thống chế André Masséna mới là người chỉ huy với các hành động quyết định, bên cạnh còn có Tướng Laurent Gouvion Saint-Cyr.

Vào ngày 08/02/1806, đạo quân xâm lược của Pháp gồm 40.000 lính đã tiến vào Naples. Cánh quân trung tâm của đạo quân này nằm dưới quyền của tướng André Masséna và tướng Jean Reynier tiến về phía Nam. Trong khi đó tướng Giuseppe Lechi dẫn dầu cánh quân từ Ancona tiến ra bờ Biển Adriatic. Hoàng đế Napoleon để người anh trai Joseph của mình đi cùng tướng Reynier. Cuộc tiến công của quân Pháp ít gặp phải sự kháng cự, các lực lượng Anh-Nga đã rút lui một cách thận trọng, quân Anh rút về Đảo Sicily, trong khi đó quân Nga rút về Corfu. Bị các đồng minh của mình bỏ rơi, vua Ferdinand đã bỏ ngai vàng để đến Palermo vào ngày 23/01, vợ ông là Hoàng hậu Maria-Carolona cũng rời thủ đô của vương quốc vào ngày 11/02 để hội ngộ cùng chồng tại Palermo.

Trở ngại đầu tiên của quân Pháp gặp phải là tại pháo đài Gaeta; chỉ huy của nó là Thân vương Landgrave của Hesse-Philippsthal đã từ chối đầu hàng. Tuy nhiên quân Pháp không vì thế mà trì hoãn tiến quân, tướng Masséna đã để lại một lực lượng nhỏ đồn trú và bao vay, lực lượng còn lại tiếp tục tiến quân xuống phía Nam. Ngày 14/02, tướng Masséna chiếm được thủ đô Naples và ngày hôm sau Joseph tổ chức một buổi lễ ăn mừng chiến thắng. Tướng Reynier nhanh chóng được điều động để giành quyền kiểm soát Eo biển Messina vào ngày 09/03, đánh bại Quân đội Hoàng gia Napoli trong Trận Campo Tenese.

Ngày 30/03/1806, Hoàng đế Napoleon I đã ban hành sắc lệnh phong cho anh trai mình là Joseph Bonaparte làm Vua của Napoli và Sicily.

Joseph tiến quân vào Naples với sự chào đón nồng nhiệt của người dân, ông đã tìm mọi cách để chiếm được sự ủng hộ của họ, trong đó ông đã cho phép phần lớn những cựu quan chức và giới tinh hoa dưới thời Bourbon giữ lại chức tước và địa vị của mình trong chính phủ mới do ông đứng đầu. Sau khi thành lập một chính phủ lâm thời tại thủ đô của vương quốc, ngay lập tức công đã cùng Tướng Lamerque lên đường để tham quan và khảo sát quanh vương quốc của mình. Mục tiêu chính của chuyến tham quan chính là đánh giá tính khả thi của một cuộc tiến quân xâm lược Đảo Sicily để trục xuất Cựu hoàng Ferdinand và vợ ông ta là Hoàng hậu Maria-Carolona khỏi Palermo. Tuy nhiên khi xem xét tình hình tại Eo biển Messina, Joseph buộc phải thừa nhận rằng: đánh chiếm Sicily ngay lập thức là điều bất khả thi, vì quân của Bourbon đã điều tất cả quân đội, tàu thuyền và phương tiện vận tải dọc bờ biển để tăng tính phòng thủ dưới sự hỗ trợ của người Anh.

Khi trở về Naples, nhà vua đã quyết tâm thực hiện một chương trình cải cách và mang lại cho Vương quốc Napoli những lợi ích của Cách mạng Pháp. Joseph đã cho lập một chính phủ với những bộ trưởng tài năng, ông bổ nhiệm Antoine Christophe Saliceti làm Bộ trưởng cảnh sát, Pierre Louis Roederer làm Bộ trưởng tài chính, André François Miot de Mélito làm Bộ trượng Nội vụ và tướng Guillaume-Mathieu Dumas làm Bộ trưởng Chiến tranh. Trong đó Hoàng đế Napoleon I đã bổ nhiệm nguyên soái Jean-Baptiste Jourdan làm thống đốc Naples, đồng thời là cố vấn quân sự quan trọng bên cạnh tân vương Joseph.

Joseph bắt tay vào một chương trình cải cách đầy tham vọng, nhằm đưa Vương quốc Napoli trở thành một nhà nước hiện đại theo khuôn mẫu của nước Pháp thời Napoléon. Các tu viện bị đàn áp, tài sản của họ bị quốc hữu hoá, các quỹ của tu viện bị tịch thu để ổn định tài chính cho hoàng gia mới. Các đặc quyền và thuế của thời phong kiến ​​bị bãi bỏ; tuy nhiên, giới quý tộc đã được đền bù bằng một khoản tiền bồi thường dưới hình thức chứng nhận họ có thể đổi lấy những vùng đất được quốc hữu hóa từ Giáo hội. Một trường cao đẳng được thành lập ở mỗi tỉnh để giáo dục trẻ em gái. Một trường cao đẳng trung ương được thành lập tại Aversa dành cho con gái của những nhà hoạt động công ích, và những nữ sinh giỏi nhất từ ​​các trường cấp tỉnh, được nhận vào học dưới sự bảo trợ cá nhân của Nữ hoàng Hoàng hậu Julie Clary.

Chính sách cưỡng bức tuyển mộ tù nhân vào quân đội đã bị bãi bỏ. Để trấn áp và kiểm soát bọn cướp trên núi, các ủy ban quân sự được thành lập với quyền xét xử và xử tử mà không cần kháng cáo. Các công trình công cộng được bắt đầu cung cấp việc làm cho người nghèo và đầu tư vào những cải tiến cho vương quốc. Đường cao tốc được xây dựng đến Reggio. Một con đường ở Calabria đã được hoàn thành dưới thời Joseph trong vòng một năm sau nhiều thập kỷ trì hoãn ở triều vua trước. Vào năm thứ hai dưới triều đại của mình, Joseph đã lắp đặt hệ thống chiếu sáng đường phố công cộng đầu tiên ở Naples, được mô phỏng theo hệ thống hoạt động ở Paris. Do đó Joseph được xem là một nhà cai trị tốt nhất của Chủ nghĩa chuyên chế Khai sáng (Enlightened absolutism), ông đã giúp tăng nguồn tài chính cho hoàng gia từ 7 lên 14 triệu ducat trong hai năm trị vì ngắn ngủi của mình, song song với điều đó ông luôn tìm mọi cách để giảm nhẹ gánh nặng cho người dân của mình.

Joseph cai trị Vương quốc Naples trong 2 năm, sau đó được Napoleon I đưa về làm vua của Tây Ban Nha vào tháng 8/1808 ngay sau khi Đệ Nhất Đế chế Pháp đưa 100.000 quân xâm lược và chiếm đóng quốc gia này. Vương quốc Naples được giao lại cho người em rể là Joachim Murat cai trị.

Vua Tây Ban Nha

thumb|left|Biếm họa tuyên truyền mô tả Joseph Bonaparte ở Tây Ban Nha Joseph có phần miễn cưỡng rời bỏ ngai vàng Vương quốc Napoli để đến nhận chiếc vương miện Đế chế Tây Ban Nha theo chỉ thị của người em trai - Hoàng đế Napoleon. Tuy chỉ mới làm vua ở Napoli trong 2 năm, nhưng tại đây Joseph rất được người dân yêu mến và kính trọng, trong khi đó tại Tây Ban Nha thì ngược lại, người dân ở Bán đảo Iberia không ưa thích ông. Joseph đã bị các đối thủ của mình ở Tây Ban Nha chỉ trích nặng nề, họ cố bôi nhọ danh tiếng của ông bằng cách gọi ông là "Pepe Botella" vì ông uống nhiều rượu. Sự xuất hiện của Joseph trên ngai vàng Tây Ban Nha đã gây ra một cuộc nổi dậy ở Tây Ban Nha chống lại sự cai trị của người Pháp, điều này đã khởi đầu cho Chiến tranh Bán đảo. Thompson đã nhận định rằng: cuộc nổi dậy ở Tây Ban Nha là một phản ứng chống lại các thể chế và lý tưởng mới. Ngai vàng quân chủ cha truyền con nối của các vị vua Công giáo mà Napoleon, được cho là kẻ thù truyền kiếp của Giáo hoàng đã đội lên đầu của một người Pháp. Các nhà thờ Công giáo bị đàn áp bởi những người cộng hoà, giết hại các linh mục và thi thành "loi des Cultes" (luật tôn giáo); các quyền và đặc quyền tại các địa phương và tỉnh tự trị bị đe doạ bởi một chế độ quân chủ tập trung được tổ chức theo mô hình của Napoleon.

Joseph tạm thời rút lui cùng với phần lớn quân Pháp về phía Bắc Tây Ban Nha. Bản thân ông cảm thấy mình đang ở một vị trí ô nhục, ông đã đề xuất với em trai mình để ông thoái vị và hy vọng sẽ được trở lại ngai vàng của Vương quốc Napoli, nơi mà ông rất được lòng của thần dân. Tuy nhiên Hoàng đế Napoleon đã gạt bỏ điều này, chính phủ của Đệ Nhất Đế chế Pháp đã gửi thêm quân tiếp viện hỗ trợ Joseph duy trì ngai vàng của mình. Dù quân đội Pháp đánh chiếm Madrid dễ dàng, nhưng sự kiểm soát lãnh thổ của chính quyền Joseph tại Tây Ban Nha luôn bị quân du kích ủng hộ Nhà Bourbon chống lại liên tục. Joseph và những người ủng hộ ông chưa bao giờ thiết lập được quyền kiểm soát hoàn toàn đối với đất nước.

Những người Tây Ban Nha ủng hộ Vua Joseph được gọi là "josefinos" hoặc "afrancesados" (điên cuồng). Trong thời gian cai trị của mình, Joseph đã chấm dứt sự hoạt động của Tòa án dị giáo Tây Ban Nha, một phần quyết định này cũng do Napoleon I có mâu thuẫn với Giáo hoàng Piô VII. Bất chấp những cải cách mang tính cách mạng, Joseph vẫn không được phần lớn người Tây Ban Nha chấp nhận là một vị vua hợp pháp của họ. Trong thời kỳ Joseph cai trị Tây Ban Nha, Venezuela đã tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha. Nhà vua hầu như không có bất cứ ảnh hưởng nào trong suốt cuộc Chiến tranh Bán đảo, vì các vị tướng dưới quyền của vua Joseph luôn phải xin ý kiến của Hoàng đế Napoleon trước khi thực hiện các chỉ thị của Joseph.

Vua Joseph thoái vị và trở về Pháp sau khi các lực lượng chính của Pháp bị liên quân do Anh dẫn đầu đánh bại trong Trận Vitoria năm 1813. Trong chiến dịch kết thúc của Chiến tranh của Liên quân thứ sáu, Napoléon đã để anh trai mình cai quản Paris với quân hàm Trung tướng của Đế chế. Kết quả là, Joseph lại nắm quyền chỉ huy trên danh nghĩa của Quân đội Pháp trong Trận Paris (1814).

Ông được những người theo Chủ nghĩa Bonaparte coi là Hoàng đế hợp pháp của Đế chế Pháp sau cái chết của con trai Napoleon I là Napoleon II vào năm 1832, tuy nhiên ông đã có rất ít động thái trong việc thúc đẩy những tuyên bố này.

Cuộc sống sau này ở Mỹ và châu Âu

Trong giai đoạn từ năm 1817 đến 1832, Joseph chủ yếu sống ở Hoa Kỳ (nơi ông bán những món đồ trang sức mà ông đã sở hữu được trong thời kỳ làm vua Tây Ban Nha). Lúc đầu ông định cư ở Thành phố New York và Philadelphia, nhà của ông đã trở thành nơi hội họp của những người Pháp xa xứ. Năm 1823, ông trở thành thành viên của Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ. Tại Point Breeze, Joseph đã tổ chức nhiều buổi chiêu đãi dành dành cho giới tinh hoa hàng đầu trong thời của ông.

Một số nhà cách mạng Mexico đã đề nghị đưa Joseph lên làm Hoàng đế Mexico vào năm 1820, nhưng ông đã từ chối

Gia đình

Ông kết hôn với Marie Julie Clary, con gái của François Clary, vào ngày 01/08/1794 tại Cuges-les-Pins, Pháp. Họ có 3 cô con gái:

  • Julie Joséphine Bonaparte (29 tháng 2 năm 1796 - 6 tháng 6 năm 1797).
  • Zénaïde Laetitia Julie Bonaparte (8 tháng 7 năm 1801 - 1854); kết hôn năm 1822 với Charles Lucien Bonaparte.
  • Charlotte Napoléone Bonaparte (31 tháng 10 năm 1802 - 2 tháng 3 năm 1839); kết hôn năm 1826 với Napoléon Louis Bonaparte.

Ông xác định 2 cô con gái còn sống là người thừa kế của mình.

Ông cũng có 2 người con với Maria Giulia Colonna, Nữ Bá tước Atri:

  • Giulio (1806–1838)
  • Teresa (1808 – chết khi còn nhỏ).

Joseph cũng có 2 cô con gái người Mỹ được sinh ra tại Point Breeze, bất động sản của ông ở Bordentown, New Jersey, bởi tình nhân của ông, Annette Savage ("Madame de la Folie"):

  • Pauline Anne; Chết trẻ.
  • Catherine Charlotte (1822–1890); kết hôn với Đại tá Zebulon Howell Benton ở Hạt Jefferson, New York, họ có với nhau 4 con gái và 3 con trai.

Hội Tam Điểm

Joseph Bonaparte được nhận vào "Marseille's lodge la Parfaite Sincérité" trong năm 1793. Ông được em trai mình là Napoléon Bonaparte giao cho nhiệm vụ giám sát Hội Tam Điểm với tư cách là "Grand Master" của "Grand Orient de France" (1804 - 1815). Ông cùng với Jean-Jacques-Régis de Cambacérès đã khuyến khích sự tái lập của Hội Tam Điểm ở Pháp sau Cách mạng.

Di sản

  • Vịnh Joseph Bonaparte ở Lãnh thổ Bắc Úc được đặt theo tên của ông.
  • Hồ Bonaparte, nằm ở thị trấn Diana, New York, Hoa Kỳ, cũng được đặt theo tên của ông.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Joseph-Napoleon Bonaparte** (7 tháng 1 năm 1768 – 28 tháng 7 năm 1844) là một luật sư, chính trị gia dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Pháp, và là một quý tộc, nhà cai trị
**Charles Joseph Bonaparte** ( ; 9 tháng 6 năm 1851 – 28 tháng 6 năm 1921) là một luật sư và nhà hoạt động chính trị người Mỹ vì các mục đích tiến bộ và
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Jérôme-Napoléon Bonaparte** (Tên khai sinh: Girolamo Buonaparte; 15 tháng 11 năm 1784 - 24 tháng 6 năm 1860) là em trai út của Hoàng đế Napoleon I, được đưa lên làm vua của Vương quốc
**Carolina Maria Annunziata Bonaparte Murat Macdonald** (tiếng Pháp: _Caroline Marie Annonciade Bonaparte_; 25 tháng 3 năm 1782 – 18 tháng 5 năm 1839), hay được biết đến nhiều hơn với cái tên **Caroline Bonaparte**, là
**Louis Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh **Luigi Buonaparte**; 2 tháng 9 năm 1778 - 25 tháng 7 năm 1846) là em trai của Napoléon I, Hoàng đế của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Từ năm
**Maria Anna Elisa Bonaparte Baciocchi Levoy** (tiếng Pháp: _Marie Anne Elisa Bonaparte_; 3 tháng 1 năm 1777 – 7 tháng 8 năm 1820), được biết đến nhiều hơn với tên **Elisa Bonaparte**, là một công
**Lucien Bonaparte, Hoàng tử Pháp, Đệ nhất Thân vương xứ Canino và Musignano** (21 tháng Năm 1775 – 29 tháng 7 năm 1840), tên khai sinh **Luciano Buonaparte**, là một trong ba đứa con trai
**Charlotte Napoléone Bonaparte** (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1802 ở Paris và mất ngày 03 tháng 03 năm 1839 tại Sarzane, Ý) là con gái của Joseph Bonaparte và Julie Clary. Chị gái bà
Zénaïde Bonaparte và em gái [[Charlotte Bonaparte]] ## Tiểu sử Zénaïde Laetizia Julie Bonaparte (sinh ngày 8/7/1801 tại Paris và mất ngày 8/8/1854 tại xứ Napoli) là con gái của Joseph Bonaparte và Julie Clary.
**Elizabeth Patterson Bonaparte** (6 tháng 2 năm 1785 – 4 tháng 4 năm 1879) là một nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Bà là con gái của William Patterson, một thương gia giàu có
nhỏ|Căn phòng mà [[Napoléon Bonaparte được sinh ra vào năm 1769]] **_Maison Bonaparte_** (Tiếng Corse và tiếng Italia: _Casa Buonaparte_) là nhà tổ tiên của nhà Bonaparte. Nó được vị trí ở Rue Saint-Charles tại
**Thân vương Napoléon Joseph Charles Paul Bonaparte** (9 tháng 9 năm 1822 – 17 tháng 3 năm 1891), thường được gọi là **Napoléon-Jérôme Bonaparte** hoặc **Jérôme Bonaparte**, là con trai thứ hai của Jérôme của
**Napoléon-Louis Bonaparte** (11 tháng 10 năm 1804 - 17 tháng 3 năm 1831) là vị vua thứ 2 của Vương quốc Holland, với vương hiệu **Louis II** (tiếng Hà Lan: _Lodewijk II_), nhưng ở ngôi
**Pauline Bonaparte** (20 tháng 10 năm 1780 - 09 tháng 06 năm 1825) là Nữ công tước có chủ quyền đầu tiên của Công quốc Guastalla ở Ý, công chúa hoàng gia Pháp và công
**Marie Julie Clary** (26 tháng 12 năm 1771 – 7 tháng 4 năm 1845), là Vương hậu của Napoli, sau đó là của Tây Ban Nha, bà là vợ của Joseph Bonaparte, Vua của Napoli
**Napoléon II** (_Napoléon François Joseph Charles Bonaparte_; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng
**_Đệ nhất tổng tài vượt dãy Anpơ trên đèo Grand-Saint-Bernar_** (tiếng Pháp: _Le Premier Consul franchissant les Alpes au col du Grand-Saint-Bernard_) còn được gọi bằng các tên khác như _Napoléon vượt núi Saint-Bernard_ (_Napoléon
**Napoléon III** hay **Napoléon Đệ tam**, cũng được biết như **Louis-Napoléon Bonaparte** (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên
**Carlo Maria Buonaparte** hay **Charles-Marie Bonaparte** (27 tháng 03 năm 1746 - 24 tháng 02 năm 1785) là một luật sư và nhà ngoại giao người Corsica, được biết đến nhiều nhất với tư cách
**Các Thân vương xứ Canino và Musignano** đã hình thành nên dòng dõi cao cấp của Vương tộc Bonaparte sau cái chết của Joseph Bonaparte vào năm 1844. Dòng dõi này được kế vị bởi
Gay-Lussac và [[Jean-Baptiste Biod|Biod trên một khinh khí cầu, 1804. Tranh cuối thế kỷ XIX.]] **Joseph Louis Gay-Lussac** (6 tháng 12 năm 1778 – 9 tháng 5 năm 1850) là một nhà hóa học, nhà
**Emmanuel Joseph Sieyès** (3 tháng 3 năm 1748 – 20 tháng 6 năm 1836), hay còn được biết đến với biệt danh **Giáo sĩ Sieyès** (), là một đạo hữu Công giáo, nhà chính trị
**Pierre-Joseph Proudhon** (; phiên âm tiếng Việt: **Pruđông**; 15 tháng 1 năm 1809 – 19 tháng 1 năm 1865) là một nhà xã hội chủ nghĩa, nhà chính trị, nhà triết học, nhà kinh tế
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Joséphine de Beauharnais** (phiên âm tiếng Việt: **Giô-dê-phin**; ; tên khai sinh là **Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie**; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của
**Hiệp ước Amiens** tạm thời chấm dứt các cuộc chiến giữa Pháp và Anh trong cuộc Cách mạng Pháp. Nó đã được ký kết tại thành phố Amiens vào ngày 25 tháng 3 năm 1802
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
**Ajaccio** là tỉnh lỵ của tỉnh Corse-du-Sud, thuộc vùng hành chính Corse của nước Pháp, có dân số là 52.880 người (thời điểm 1999). Đây cũng là khu định cư lớn nhất trên đảo. Ajaccio
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Vương quốc Ý** (, ) là sự thống nhất Ý trước và trong giai đoạn 1805-1814, nằm trong lãnh thổ nước Ý ngày nay, một quốc gia trên lãnh thổ mà không còn tồn tại,
**Đảo chính ngày 18 tháng Sương mù** là cuộc đảo chính đưa Tướng Napoléon Bonaparte lên làm Tổng tài thứ nhất của Pháp, kết thúc cuộc Cách mạng Pháp. Nó xảy ra ngày 9 tháng
**Louis-Gabriel Suchet** (2 tháng 3, 1770 – 3 tháng 1, 1826), Công tước của Albufera (), là một thống chế Pháp, và một trong những chỉ huy thành công nhất của Cách mạng Pháp và
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Liên minh thứ năm** chỉ gồm có Vương quốc Anh và Áo, chống lại Đế quốc Pháp cùng các đồng minh là Vương quốc Ý, Bayern, Sachsen, Hà Lan, Napoli, Liên bang sông Rhine, Công
**Maria-Letizia Bonaparte** (née **Ramolino**; 24 tháng 8 năm 1750 hoặc 1749 – 2 tháng 2 năm 1836) là một nữ quý tộc người Ý, mẹ ruột của Hoàng đế Pháp trứ danh Napoléon Bonaparte. ##
Ngày **28 tháng 7** là ngày thứ 209 (210 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 156 ngày trong năm. ## Sự kiện * 1364 – Trận Cascina giữa Cộng hòa Florence và Cộng hòa
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
**Fernando VII của Tây Ban Nha** (tiếng Anh: Ferdinand VII; 14 tháng 10 năm 1784 - 29 tháng 9 năm 1833) ông trị vì Vương quốc Tây Ban Nha trong hai lần, lần đầu vào
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**Bộ Luật Napoleon** (tiếng Pháp: **_Code Napoléon_**; chính thức là **Code civil des Français**, gọi là **(le) Code civil**) là bộ dân luật Pháp ban hành năm 1804 trong thời Tam Đầu Chế Pháp. Bộ
Điện Tàn phế Invalides **Điện Invalides** phiên âm: _Ăng-va-li(đơ)_, tạm dịch là **Điện Thương binh** hay **Điện Tàn phế**) là một công trình nổi tiếng của thành phố Paris. Được vua Louis XIV cho xây
**Katharina của Württemberg** (tên đầy đủ: _Friederike Katharina Sophie Dorothea_; 21 tháng 2 năm 1783 – 29 tháng 11 năm 1835) còn gọi là Katharine Sophie Friederike Dorothea tại Sankt-Petersburg, Đế quốc Nga, là con
**Felice Pasquale Baciocchi** (18 tháng 5 năm 1762 – 27 tháng 4 năm 1841) sinh ra tại Ajaccio trong một gia đình quý tộc sa sút ở Đảo Corse thuộc Pháp. Ông là thiếu úy
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Maria Clotilde của Ý, hay Maria Clotide của Savoia** (Ludovica Teresa Maria Clotilde, 02 tháng 3 năm 1843 - 25 tháng 06 năm 1911) sinh ra tại Torino, con gái của Vittorio Emanuele II của
**Hiệp ước Lunéville** (hay **Hòa ước Lunéville**) được ký kết tại Nhà Hiệp ước Lunéville vào ngày 9 tháng 2 năm 1801. Các bên ký kết là Đệ Nhất Cộng hòa Pháp và Hoàng đế