✨Joséphine de Beauharnais

Joséphine de Beauharnais

Joséphine de Beauharnais (phiên âm tiếng Việt: Giô-dê-phin; ; tên khai sinh là Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của Đế quốc Pháp thời kỳ đế chế thứ nhất. Bà là Hoàng hậu đầu tiên của Hoàng đế Napoleon.

Trước khi lấy Napoléon, bà từng kết hôn với Alexandre de Beauharnais, một nhà quý tộc từng bị xử tử hình trong thời kỳ cách mạng Pháp, và có hai người con là Eugène de Beauharnais và Hortense de Beauharnais. Hoàng đế Napoléon III là con trai của Hortense vì vậy là cháu ngoại của Josephine. Còn con cháu của Eugène de Beauharnais là nhiều Quốc vương của Đan Mạch và Thụy Điển, các vương tộc ở Bỉ, Na Uy và Luxembourg cũng có quan hệ họ hàng với bà.

Do không thể sinh con cho hoàng đế Napoléon, Hoàng đế và Hoàng hậu đã ly dị vào năm 1810, tuy nhiên Napoléon vẫn cho bà giữ lại danh hiệu Hoàng hậu và giữ quan hệ tốt đẹp với bà. Sinh thời, Hoàng đế Napoléon từng viết nhiều bức thư tình cho Hoàng hậu mà sau này chúng rất nổi tiếng. Lâu đài của bà ở Malmaison được nhớ đến do vườn hoa hồng tráng lệ mà bà rất ưa thích và dành nhiều thời gian để tập hợp những loài hoa hồng trên khắp thế giới, và cho in một tác phẩm lịch sử về hoa hồng

Tên gọi

Hoàng hậu Joséphine của Pháp thường được gọi với tên "Joséphine de Beauharnais". Tuy nhiên cái tên đấy không hề được khổ chủ sử dụng vì "Beauharnais" là họ của chồng trước của Joséphine, và sau khi kết hôn với Napoléon bà không còn dùng cái họ đấy nữa mà dùng họ "Bonaparte" của Napoléon. "Joséphine" là tên mà Napoléon hay gọi bà, và trước khi gặp hoàng đế tương lai của Pháp bà cũng không dùng tên này, có thể là bà dùng tên đệm của mình là "Josèphe" để xưng hô. Ngoài ra, trước khi gặp Napoléon, cũng có một thời gian bà tự xưng là Rose, hay Marie-Rose, hay Tascher de la Pagerie, (hoặc de Beauharnais), và đôi khi bà sử dụng họ hồi chưa kết hôn là Tascher de la Pagerie trong những năm cuối đời. Sau khi kết hôn với Napoléon, bà sử dụng tên Joséphine Bonaparte. Còn danh xưng "Joséphine de Beauharnais" được cho là xuất hiện vào thời kỳ Trung hưng của dòng họ Bourbon, vương gia Bourbon rõ ràng không muốn sử dụng họ Bonaparte của kẻ địch là Napoléon, cũng như không muốn thừa nhận danh hiệu Hoàng hậu của bà.

Tuổi trẻ

thumb|left|Alexandre-Francois-Marie, tử tước Beauharnais, người chồng đầu tiên của Joséphine. Tranh vẽ bởi [[Georges Rouget]] Hoàng hậu Joséphine tên thật là Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie. Bà sinh ra ở Les Trois-Îlets trên vùng đảo Martinique ở biển Caribe, xuất thân trong một gia đình đại điền chủ sở hữu một đồn điền trồng mía đường (nay đã đã trở thành một viện bảo tàng). Thân phụ của bà là ông Joseph-Gaspard Tascher (1735–1790), Hiệp sĩ, lãnh chúa la Pagerie, sĩ quan thủy binh. Thân mẫu của bà là bà Rose-Claire des Vergers de Sannois (1736–1807). Ông ngoại của bà, Anthony Brown, có thể là một người Ailen. Khi sức khoẻ của Hầu tước bắt đầu suy yếu, bà Edmée đã tìm cách mai mối cô Catherine-Désirée, em gái của Marie Josèphe, cho con trai của Hầu tước là Alexandre de Beauharnais. Rõ ràng quan hệ hôn nhân với gia đình Hầu tước Beauharnais mang lại món lợi lớn về kinh tế cho gia đình Tascher. Không may cho Catherine-Désirée là cô chết đột ngột vào ngày 16 tháng 10 năm 1777 ở tuổi 12 trước khi gặp mặt gia đình Hầu tước, vì vậy Marie Josèphe được chọn để thay em gái mình đính hôn., về sau trong một khu nhà ở đường Neuve Saint-Charles. Họ có với nhau hai mặt con, con trai Eugène (1781–1824) và con gái Hortense (1783–1837).

Marie Josèphe, lúc này là vợ của một Tử tước, đã có thể hưởng thụ một cuộc sống dễ chịu hơn so với trước. Tuy nhiên các sự kiện sau đó cho thấy cuộc sống vợ chồng hai người không hạnh phúc. Ông chồng Alexandre thường xuyên vắng nhà, những hôm không ở trong quân ngũ, Alexandre thường xuyên lui tới nhà thầy dạy cũ là Antoine Patricol ở La Roche-Guyon. Những khi Marie Josèphe than phiền về sự thờ ơ của chồng, Alexandre đáp lại bằng việc chê bai vợ là người thiếu giáo dục. Sau khi Marie Josèphe sinh con trai đầu lòng là Eugène, quan hệ vợ chồng có đầm ấm lên đôi chút Tình hình tài chính của Marie Josèphe trong giai đoạn này tương đối khó khăn, vì vậy bà và con gái dự tính về quê, hai người rời Pháp vào tháng 6 năm 1788. Trong suốt 3 năm, bà và con gái không có chỗ ở cố định, nhưng Marie Josèphe ít nhiều gây được ảnh hưởng trong cộng đồng dân cư Martinique Hồi ký của Paul Barras ghi rằng thời gian này rộ lên tin đồn Marie Josèphe có quan hệ tình cảm và có con rơi với người dân địa phương, tin đồn này làm xấu đi quan hệ giữa bà và Alexander de Beauharnais.

Thời kỳ Cách mạng Pháp

Năm 1789, Cách mạng Pháp bùng nổ và mau chóng lan sang hải đảo Martinique của Pháp. Một người chú của Marie Josèphe bị quân cách mạng bắt làm con tin ở Pháo đài Desaix. Thủ phủ của Martinique nhanh chóng bị vây hãm, Joséphine cùng con gái bỏ trốn khỏi đảo trên chiếc tàu La Sensible và cập bến Toulon vào tháng 11 năm 1790. Hai người sau đó dọn đến sống cùng với người dì ở Fontainebleau. Alexandre de Beauharnais trong thời gian này đang là một chính trị gia hoạt động tích cực cho Cách mạng Pháp, và Marie Josèphe dù ly thân với chồng, cũng thường xuyên xuất hiện trước công chúng với tư cách là vợ của Alexandre, và tận dụng cơ hội để tạo dựng các mối quan hệ xã hội với các nhân vật nổi tiếng trong chính giới Pháp như bá tước La Fayette, Hầu tước Caulaincourt, thậm chí cả các nhân vật thuộc phái cực hữu như Michelle de Bonneuil và phái cực tả như Charlotte de Robespierre. cũng như bị kết tội là thành phần quý tộc của chế độ phong kiến cũ. Trong thời gian này Marie Josèphe tá túc tại nhà của một người bạn là Phu nhân Hosten-Lamotte tại Croissy. Thông qua mối quan hệ với người đứng đầu uỷ ban an ninh là Marc-Guillaume-Alexis Vadier, Joséphine đã giúp nhiều người thân và họ hàng thoát khỏi cảnh tù tội, nhưng bà không cứu được ông chồng xấu số., thậm chí giữ lại được căn hộ ở Croissy. Tiền bạc rủng rỉnh trong túi, Marie-Josèphe gửi hai con đi học ở những cơ sở có tiếng tăm tại Saint-Germain-en-Laye. Con trai Eugène được học ở một trường Ailen điều hành bởi cha xứ Mac Dermott, con gái Hortense được dạy dỗ bởi Phu nhân Campan, người từng là Đại thị nữ của cố vương hậu Maria Antonia. Marie Josèphe cũng tranh thủ tạo dựng mối quan hệ với nhiều nhân vật chính trị của Pháp. Bà là bạn thân của Theresa, vợ của Jean-Lambert Tallien, người cứu bà thoát khỏi nhà tù. Hai người phụ nữ cũng đứng đầu bảng trong nhóm các phụ nữ ăn chơi xa xỉ trong xã hội Pháp lúc đó và để lại ảnh hưởng nhất định trong thời trang ăn mặc của giới thượng lưu Pháp. Marie Josèphe cũng có quan hệ thân thiết vởi Paul Barras, người cầm đầu chế độ Đốc chính, đến mức nhiều ý kiến cho rằng hai người là tình nhân. Trong thời gian này Marie-Josèphe, sử dụng tên gọi "Rose".

Kết hôn với Napoléon

thumb|Joséphine tại Malmaison năm 1801, tranh của [[François Gérard]]

Rose và Napoléon Bonaparte gặp nhau vào năm 1795 và hai người phải lòng nhau. Napoléon lúc này là một danh tướng mới nổi sau vụ dẹp cuộc bạo loạn ngày 13 tháng Hái Nho và trẻ hơn bà 6 tuổi. Theo một giai thoại do Napoléon kể lại (và được Eugène, Hortense và Paul Barras xác nhận), sau cuộc bạo loạn chính quyền ra lệnh tịch thu tất cả vũ khí của người dân Paris vì lý do an ninh, trong số đó có thanh bảo kiếm của Alexandre de Beauharnais. Vì vậy, cậu bé Eugène de Beauharnais đã đánh bạo đến gặp Napoléon để xin lại thanh kiếm của cha mình và được Napoléon chấp thuận. Ngày hôm sau, bà Rose đến gặp Napoléon để tạ ơn. Phải lòng người phụ nữ xinh đẹp, Napoléon ngỏ lời xin ghé thăm tư dinh của bà và các buổi ghé thăm thân mật như vậy sau đó ngày càng thường xuyên hơn. Tháng 1 năm 1796, Napoléon cầu hôn Rose và hai người kết hôn vào ngày 9 tháng 3. Napoléon thường gọi bà là Joséphine và đây là cái tên bà sử dụng đến cuối đời, thay cho cái tên "Rose". Cuộc hôn nhân giữa Joséphine và Napoléon không được gia đình chồng đón nhận nồng nhiệt, nhà chồng tỏ ra ngạc nhiên về việc Napoléon kết hôn với một phụ nữ lớn tuổi và đã có con riêng. Mẹ và các chị em gái của Napoléon đặc biệt ghét Joséphine vì họ, xuất thân từ một quý tộc bình dân, cảm thấy khó chịu trước phong thái quan cách và quý tộc của Joséphine. Chỉ hai ngày sau khi cưới, Napoléon Bonaparte lên đường viễn chinh ở Ý. Ông đã gửi cho Joséphine nhiều lá thư bày tỏ tình cảm.

Tuy nhiên mối quan hệ giữa Joséphine và Napoléon cũng xảy ra nhiều trục trặc, ví dụ như nhiều bê bối ngoại tình đến từ hai bên. Trong thời gian Napoléon viễn chinh, năm 1796 Joséphine có quan hệ tình cảm với một trung uý khinh kỵ binh là Hippolyte Charles. Tin tức bay đến taui của Napoléon và ông rất giận dữ. Phía bên Napoléon cũng không vừa. Trong chiến dịch viễn chinh Ai Cập năm 1798, Napoléon dính vào chuyện tình ái với vợ của một sĩ quan cấp dưới là Pauline Fourès, người được mệnh danh là "nàng Cleopatra của Napoléon". Chuyện ngoại tình này ảnh hưởng xấu đến quan hệ vợ chồng Joséphine và Napoleon. Một vụ bê bối khủng khiếp khác xảy ra chỉ mấy ngày trước khi Napoléon đăng cơ, khi Joséphine bắt quả tang chồng mình đang dan díu với Élisabeth de Vaudey, người hầu của Joséphine. Hai vợ chồng gây gổ với nhau một trận kinh khủng và hôn nhân suýt nữa đổ vỡ nếu không có sự can thiệp và hoà giải của Hortense, con gái riêng của Joséphine.

Sau vụ Hippolyte Charles, sử liệu không thấy ghi nhận gì về chuyện ngoại tình (nếu có) của Joséphine, trong khi đó Napoléon tiếp tục ngoại tình với một số phụ nữ khác. Năm 1804 Napoléon tuyên bố "tình nhân của ta là quyền lực".

Ngày 24 tháng 12 năm 1800, Joséphine suýt nữa thiệt mạng trong một vụ đánh bom, khi bà cùng chồng, gia đình và bạn bè đi xem một vở kịch của Joseph Haydn tại 's Creation at the nhà hát Paris. Bà ngồi trong cỗ xe thứ hai trong đoàn cùng với con gái Hortense và một số bạn bè, khởi hành sau chồng do phải chình trang y phục, và trên đường đến nhà hát thì một quả bom phát nổ, giết chết vài người đi đường và một trong những con ngựa kéo xe. Sức nổ của quả bom làm vỡ cửa sổ xe ngựa, mảnh văng khiến tay của Hortense bị thương. May mắn là không còn ai khác có mệnh hệ gì và cả đoàn đến được nhà hát an toàn.

Hoàng hậu đế chế thứ nhất

thumb|left|Lễ đăng cơ của hoàng đế Napoléon I và hoàng hậu Josephine tại [[Nhà thờ Đức Bà Paris|Nhà thờ Đức bà Paris, ngày 2 tháng 12 năm 1804. Hoạ bởi Jacques-Louis David và Georges Rouget]]

Năm 1804, Napoléon trở thành Hoàng đế Pháp và Joséphine trở thành hoàng hậu. Lễ đăng cơ diễn ra ở Nhà thờ Đức bà Paris ngày 2 tháng 12 năm 1804. Theo nghi thức, Napoléon đội vương miện cho chính mình rồi đội mũ miện lên Joséphine, tuyên bố bà là hoàng hậu.

Với tư cách là hoàng hậu, Joséphine có một đội ngũ tuỳ tùng cho riêng mình và có nguyên một ban bệ chuyên quản lý chuyện ăn ở cho hoàng hậu tương tự như thời quân chủ phong kiến trước đó. Adélaïde de La Rochefoucauld, phu nhân của một gia tộc đồng minh với dòng họ Beauharnais, được phong làm Đại Thị nữ (Première dame d'honneur). Émilie de Beauharnais, một người họ hàng của Joséphine, được phong làm Thị nữ chuyên về phục sức cho hoàng hậu (Dame d'atour). Vợ của các thuộc tướng và thuộc cấp của Napoléon, bao gồm Jeanne Charlotte du Lucay, Madame de Rémusat, Elisabeth Baude de Talhouët, Lauriston, d'Arberg, Marie Antoinette Duchâtel, Sophie de Segur, Séran, Colbert, Savary, và Aglaé Louise Auguié Ney, được phong làm Thị nữ Hoàng cung (Dame de Palais).

thumb|Hoàng hậu Joséphine ly hôn với Hoàng đế Napoléon năm 1809, tranh của [[Henri Frédéric Schopin.]]

Tuy nhiên hôn nhân của Hoàng đế và Hoàng hậu sau đó đứng trước nguy cơ đổ vỡ khi Joséphine không có khả năng sinh con cho Hoàng đế. Việc một người tình của Napoléon, bà Éléonore Denuelle, sinh cho Hoàng đế một đứa con ngoài giá thú cho thấy Napoléon vẫn còn năng lực duy trì nòi giống và việc hiếm muộn là do Hoàng hậu. Hoàng đế mặc dù rất yêu thương Hoàng hậu, nhưng đứng trước ưu tiên về con cái nối dõi ông đã suy nghĩ đến chuyện ly hôn để đi bước nữa. Sau cái chết của Napoléon Charles Bonaparte, con trai Hortense với Louis Bonaparte vào năm 1807, Napoléon dứt khoát đi đến quyết định ly hôn. Ông thông báo quyết định này cho Joséphine vào ngày 30 tháng 12 năm 1809 và Hoàng hậu cũng tán thành ly hôn để chồng có thể sinh con. Hai người chính thức ly dị vào ngày 10 tháng 1 năm 1810. Tuy nhiên, sau khi ly dị, Napoléon tuyên bố Joséphine vẫn có quyền giữ lại danh hiệu Hoàng hậu.

Ngày 11 tháng 3 năm 1810, Napoléon kết hôn với công chúa Maria Ludovica của Áo; và lễ thành hôn diễn ra vào tháng 4 tại Louvre. Napoléon tuyên bố rằng mặc dù có ít nhiều tình cảm với Maria Ludovica, đối với ông cuộc hôn nhân này thuần tuý là để sinh con đẻ cái. Hoàng hậu Maria Ludovica đã sinh cho Napoléon một người con trai, được gọi là "Ông vua nhỏ thành Roma".

Cuối đời

thumb|left|Chân dung của of Joséphine vào cuối đời, hoạ bởi [[Andrea Appiani.]]

Sau khi ly hôn, Joséphine sống tại dinh thự Malmaison gần Paris. Bà và chồng cũ vẫn giữ quan hệ tốt. Vào tháng 4 năm 1810, Napoléon phong cho bà chức Công nương Navarre. Hoàng đế cũng hào phóng "bao cấp" cho nhu cầu chi dùng xa xỉ của vợ cũ, trong đó bao gồm nhiều bộ váy áo cực kỳ sang trọng, giày dép đắt tiền và trang sức. Thậm chí khi đống nợ nần của cựu Hoàng hậu nhiều lần đẩy bà đến mức gần như phá sản, chính Hoàng đế đã đứng ra xử lý. Một số ý kiến cho rằng Napoléon và vợ cũ vẫn giữ quan hệ tình ái bí mật, mặc dù thông tin này không được kiểm chứng. Tháng 3 năm 1811, hoàng hậu Marie-Louise sinh hạ cho Napoléon một con trai, tức Napoleon II, được Napoléon phong cho danh hiệu "Vua La Mã". Hai năm sau, Napoléon sắp xếp cho Joséphine gặp con riêng của mình, người đã tiêu tốn rất nhiều nước mắt của Joséphine.

thumb|Dinh thự Malmaison gần Paris.

Joséphine mất ở Rueil-Malmaison ngày 29 tháng 5 năm 1814, ít lâu sau khi gặp gỡ Nga hoàng Aleksandr I tại dinh thự Malmaison. Người ta cho rằng trong cuộc gặp này bà đã cầu xin Nga hoàng để được đoàn tụ với chồng lúc này đang bị đi đày. Sau khi mất Joséphine được an táng ở Nhà thờ Saint Pierre-Saint Paul ở Rueil. Con gái Hortense cũng được chôn gần bà.

Napoléon biết tin Joséphine qua đời thông qua một nhật báo tiếng Pháp khi ông đang bị đi đày ở Elba. Ông giam mình trong phòng suốt hai ngày và không gặp mặt ai. Khi bị đi đày ở Saint Helena, cựu hoàng đế thổ lộ rằng mình thật lòng yêu thương Joséphine nhưng không kính trọng bà. Trước lúc lâm chung, Napoléon đã nhắc đến tên của Joséphine, cùng với tên của nước Pháp, quân đội Pháp, và chức Thống lĩnh quân đội:"Pháp, quân đội, Thống lĩnh quân đội, Joséphine." ("France, l'armée, tête d'armée, Joséphine").

Ngoại hình và tính cách

thumb|Chân dung của hoàng hậu Josephine, hoạ năm 1805 bởi [[Pierre-Paul Prud'hon]]

Hoàng hậu Joséphine có chiều cao trung bình, thân hình mảnh khảnh, có dáng, với mái tóc bóng, dài màu hạt dẻ, đôi mắt xanh, và nước da sáng. Mũi của bà nhỏ và thẳng, miệng có dáng đẹp, nhưng hàm răng của bà không được đẹp vì vậy bà ít khi mở miệng. Bà có phong thái quý phái cùng giọng nói đẹp và nhỏ nhẹ.

Theo học giả Carolly Erickson, tiêu chuẩn chọn bạn đời của hoàng hậu Joséphine là đặt lý trí lên trên tình cảm, nói cách khác bà có khả năng nhận định được người đàn ông có khả năng thoả mãn các nhu cầu tài chính và xã hội của bà. Bà ít nhiều đã nhận ra tiềm năng chính trị tương lai của Napoleon. Joséphine cũng khét tiếng về thói chi tiêu xa xỉ và có khả năng người tình Barras của bà đã cố ý mai mối Napoleon Bonaparte với bà để rũ bỏ gánh nặng tài chính. Joséphine cũng là người dễ mến, có vẻ ngoài thu hút và hào phóng.

Hoạt động nuôi trồng các giống hoa hồng

thumb|[[Rosa 'Souvenir de la Malmaison'|'Souvenir de la Malmaison']] Biệt thự Malmaison nơi Joséphine sống nổi tiếng với nhiều giống hoa hồng trồng trong sân vườn. Joséphine đã tậu căn biệt thự Malmaison vào năm 1799, lúc Napoléon còn đang viễn chinh ở Ai Cập và đã cho sửa sang lại khu sân vườn của căn biệt thự theo kiểu Anh. Nhiều chuyên gia về thực vật học và thiết kế vườn tược đến từ nước Anh đã được trưng dụng vì mục đích này, trong đó bao gồm Thomas Blaikie, Alexander Howatson, Ventenat, và Andre Dupont. Theo ý tưởng của Dupont, Joséphine đã cho trồng hoa hồng khu vườn của biệt thự ngay sau khi mua về. Joséphine cũng yêu thích hoa hồng và bỏ nhiều công chăm chút cho khu vườn hồng, bà cũng chú tâm học hỏi nhiều kiến thức về thực vật và làm vườn từ các chuyên gia. Biết phu nhân của mình thích hoa hồng, Napoléon đã hạ lệnh cho các thuộc hạ sưu tầm mọi loại cây hoa trên các nẻo đường chinh chiến và gửi về biệt thự Malmaison.

Nhà thực vật học Pierre-Joseph Redouté được giao nhiệm vụ bố trí và trang hoàng các cây hoa trong khu vườn của biệt thự. Chuyên khảo Les Roses xuất bản năm 1817-20 đã liệt kê 168 giống hoa hồng; 75–80 giống trong số đó dược trồng ở biệt thự Malmaison. Chuyên gia ươm cây vườn người Anh Kennedy đã cung cấp rất nhiều giống cây cho biệt thự Malmaison, và mặc dù lúc đấy Anh và Pháp đang có chiến tranh, các kiện hàng của ông vẫn được cơ quan chức năng cho thông quan dễ dàng. Đặc biệt, khi một giống hoa hồng từ Trung Quốc được nhập vào Anh, cơ quan chức năng Anh và Pháp đã thoả thuận cho phép giống cây này được xuất khẩu đến biệt thự của Joséphine vào năm 1810. Joseph Banks, Giám đốc Vườn thực vật Hoàng gia, Kew, cũng gửi tặng Joséphine hoa hồng.

Danh mục các giống hoa hồng tại Malmaison không được thống kê lúc Joséphine còn sống. Nhiều ý kiến cho rằng khi bà mất vào năm 1814, trong vườn có 250 cây hoa hồng. Theo Jules Gravereaux, số giống loại hoa hồng trong vườn của bà năm 1814 là 197 loại, thuộc về 12 loài. Nhà thực vật học Claude Antoine Thory nói rằng loài hoa hồng R. indica trong vườn của Joséphine có chấm đen trên cây.

Chuyên gia Andre Dupont, người tham gia xây dựng khu vườn hồng của Joséphine, là người tiên phong trong việc lai tạo các giống hoa hồng thông qua việc thụ phấn có kiểm soát

Bảo trợ cho nghệ thuật

Ngoài chơi hoa hồng, Joséphine cũng có sở thích về nghệ thuật. Bà tuyển mộ xung quanh mình các nghệ nhân từ hoạ sĩ đến nhà điêu khắc và kiến trúc sư. Đặc biệt nhờ quan hệ hôn nhân với với Alexandre de Beauharnais bà bắt đầu có điều kiện tiếp cận sâu rộng với giới nghệ sĩ thông qua các chuyến viếng thăm của chồng tới tư dinh của giới thượng lưu, nơi lưu trữ nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị. thumb|Antoine-Jean Gros,General Bonaparte at the Bridge of Arcole, 1796

Tài liệu tham khảo

  • Harrison Brent. (1946). Pauline Bonaparte, A Woman of Affairs. NY and Toronto Rinehart.
  • Ernest John Knapton. (1963). Empress Josephine. Harvard University Press. ISBN 978-0-671-51346-7
  • Nina Epton. (1975). Josephine: the Empress and Her Children. Weidenfeld & Nicolson. ISBN 978-0-393-07500-7
  • Evangeline Bruce. (1995). Napoleon and Josephine: An Improbable Marriage. NY: Scribner. ISBN 0-02-517810-5
  • Eleanor P.Delorme. (2002). Josephine: Napoleon's Incomparable Empress. Harry N. Abrams. ISBN 978-0-8109-1229-8
  • Andrea Stuart. (2005). The Rose of Martinique: A Life of Napoleon's Josephine. Grove Press. ISBN 978-0-8021-4202-3

Trong tiểu thuyết

  • Sandra Gulland, The Many Lives & Secret Sorrows of Josephine B. — 1995
  • Sandra Gulland, Tales of Passion, Tales of Woe — 1998
  • Sandra Gulland, The Last Great Dance on Earth — 2000
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Joséphine de Beauharnais** (phiên âm tiếng Việt: **Giô-dê-phin**; ; tên khai sinh là **Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie**; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của
**Alexandre François Marie, Tử tước của Beauharnais** (28 tháng 5 năm 1760 - 23 tháng 7 năm 1794) là một nhân vật chính trị Pháp và tướng lĩnh trong Cách mạng Pháp. Ông là chồng
**Eugène Rose de Beauharnais, Công tước xứ Leuchtenberg** (; 03/09/1781 - 21/02/1824), là con trai duy nhất của Alexandre François Marie, Tử tước Beauharnais và Joséphine de Beauharnais, người vợ đầu tiên của Hoàng đế
**Hortense Eugénie Cécile Bonaparte** (10 tháng 04 năm 1783 - 05 tháng 10 năm 1837) là vương hậu của Vương quốc Holland, sau khi Hoàng đế Napoleon trao vương miện cho chồng bà là Louis
**Nhà Beauharnais** còn được gọi là **Nhà Leuchtenberg** (phát âm là [bo.aʁ.nɛ]) là một gia đình quý tộc ở Pháp, Đức và Nga. Người đứng đầu hiện tại là Công tước xứ Leuchtenberg, hậu duệ
**Joséphine của Leuchtenberg** hoặc **Joséphine de Beauharnais** (_Joséphine Maximilienne Eugénie Napoleone_) (ngày 14 tháng 3 năm 1807 - 07 tháng 6 năm 1876) là Vương hậu của Thụy Điển và Na Uy, vợ của vua
**Napoléon và Joséphine: Thiên tình sử** () là một bộ phim truyền hình Mỹ, xuất bản từ ngày 10 đến 12 tháng 11 năm 1987 trên kênh ABC. ## Nội dung Truyện phim xoay quanh
**Marie-Reine de Jaham** (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1940) là một nhà văn sinh ra ở Martiniquais sống ở Pháp. Xuất thân từ những người trồng rừng ở Pháp, bà là cháu gái của
**Amélie của Leuchtenberg** (tiếng Bồ Đào Nha: _Amélia Augusta Eugénia Napoleona de Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Amélie Auguste Eugénie Napoléonne de Leuchtenberg_; tiếng Đức: _Amélie von Leuchtenberg_; 31 tháng 07 năm 1812 - 26 tháng 01
**Josephine xứ Baden** (tiếng Đức: _Josephine von Baden_; tiếng Pháp: _Joséphine de Bade_; tiếng Hà Lan: _Josefine van Baden_; tiếng Anh: _Josephine of Baden_; tên đầy đủ: _Josephine Friederike Luise_; 21 tháng 10 năm 1813
**Auguste của Leuchtenberg** (_Auguste Charles Eugène Napoléon de Beauharnais_; 09 tháng 12 năm 1810 - 28 tháng 03 năm 1835) là vương tế đầu tiên của Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha. Ngoài
**Théodelinde của Leuchtenberg** (13 tháng 04 năm 1814 - 01 tháng 04 năm 1857), là một Công nữ người Pháp-Đức và là Bá tước phu nhân xứ Württemberg sau khi kết hôn với Wilhelm xứ
**Auguste của Bayern** (tiếng Đức: _Auguste Amalie Ludovika Georgia von Bayern_) (Strasbourg, ngày 21 tháng 06 năm 1788 - Munich, ngày 13 tháng 05 năm 1851) là người con thứ hai và là con gái
**Napoléon III** hay **Napoléon Đệ tam**, cũng được biết như **Louis-Napoléon Bonaparte** (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên
thumb|Huy hiệu của [[Eugène de Beauharnais Công tước xứ Leuchtenberg]] **Công tước xứ Leuchtenberg** (tiếng Đức: _Herzog von Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Duc de Leuchtenberg_; tiếng Nga: _Герцог Лейхтенбергский_) là một tước hiệu được vua của
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Eugénie Hortense Auguste Napoléone**, được gọi là **Eugénie của Leuchtenberg** (tên đầy đủ: _Eugénie Hortense Auguste Napoléone Beauharnais_; 22 tháng 12 năm 1808 - 01 tháng 09 năm 1847) là một Công nữ Đức gốc
**Carolina Maria Annunziata Bonaparte Murat Macdonald** (tiếng Pháp: _Caroline Marie Annonciade Bonaparte_; 25 tháng 3 năm 1782 – 18 tháng 5 năm 1839), hay được biết đến nhiều hơn với cái tên **Caroline Bonaparte**, là
**Napoléon-Louis Bonaparte** (11 tháng 10 năm 1804 - 17 tháng 3 năm 1831) là vị vua thứ 2 của Vương quốc Holland, với vương hiệu **Louis II** (tiếng Hà Lan: _Lodewijk II_), nhưng ở ngôi
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Thân vương quốc Eichstätt** (tiếng Đức: _Fürstentum Eichstätt_) là một thân vương quốc trung gian hoá nằm trong Vương quốc Bayern, tồn tại từ năm 1817 đến năm 1833, lãnh thổ của nó bao gồm
**Auguste Wilhelmine xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Auguste Wilhelmine Marie von Hessen-Darmstadt_; 14 tháng 4 năm 1765 – 30 tháng 3 năm 1796) là vợ đầu tiên của Maximilian, Công tước xứ Zweibrücken, bà qua đời
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Maximilian Joseph Eugene Auguste Napoléon de Beauharnais, Công tước thứ 3 xứ Leuchtenberg, Thân vương xứ Romanowsky** (02 tháng 10 năm 1817 - 01 tháng 11 năm 1852) là chồng của Mariya Nikolayevna của Nga
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
**Đại công quốc Frankfurt** (tiếng Đức: _Großherzogtum Frankfurt_; tiếng Pháp: _Grand-duché de Francfort_) là một quốc gia vệ tinh ở Đức do Napoléon Bonaparte sáng lập ra vào năm 1810, thông qua sự kết hợp
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
nhỏ|Mũ tiara đính kim cương và ngọc lục bảo của [[Marie-Thérèse Charlotte của Pháp|Công tước phu nhân xứ Angoulême, chế tác năm 1820, hiện trưng bày tại bảo tàng Louvre]] nhỏ|Mũ tiara ngọc trai và
nhỏ|[[Đại lộ Champs-Élysées]] **Du lịch Paris** là một trong những ngành kinh tế quan trọng không chỉ của thành phố Paris mà còn cả nước Pháp vì Paris được mệnh danh là trung tâm châu
**Liên minh thứ năm** chỉ gồm có Vương quốc Anh và Áo, chống lại Đế quốc Pháp cùng các đồng minh là Vương quốc Ý, Bayern, Sachsen, Hà Lan, Napoli, Liên bang sông Rhine, Công
**Maria-Letizia Bonaparte** (née **Ramolino**; 24 tháng 8 năm 1750 hoặc 1749 – 2 tháng 2 năm 1836) là một nữ quý tộc người Ý, mẹ ruột của Hoàng đế Pháp trứ danh Napoléon Bonaparte. ##
**Chiến tranh Liên minh thứ Bảy** (), hay **Triều đại Một trăm ngày** ( ) là Liên minh cuối cùng trong loạt bảy Liên minh giữa một số cường quốc châu Âu, chống lại hoàng
**Louis Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh **Luigi Buonaparte**; 2 tháng 9 năm 1778 - 25 tháng 7 năm 1846) là em trai của Napoléon I, Hoàng đế của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Từ năm
**Marie Amelie xứ Baden** (tiếng Đức: _Marie Amelie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Maria Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Mary Amelia of Baden_; tên đầy đủ: _Marie Amelie Elisabeth Karoline_; 11 tháng 10 năm 1817
**Luise Amelie Stephanie xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise Amelie von Baden_; tiếng Pháp: Louise Amélie de Bade; tiếng Hà Lan: _Louise Amalie van Baden_; tiếng Thụy Điển: _Lovisa av Baden_; tiếng Anh: _Louise Amelia of
Dona **Maria Amélia** (1 tháng 12 năm 1831 – 4 tháng 2 năm 1853) là Hoàng nữ của Đế quốc Brasil và là thành viên của nhánh Brasil của Vương tộc Bragança. Cha mẹ cô
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Tuyển hầu quốc Baden** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Baden_; tiếng Anh: _Electorate of Baden_) là một Nhà nước của Đế quốc La Mã Thần thánh, tồn tại từ năm 1803 đến năm 1806 với địa vị
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**Mary Victoria Hamilton**, còn được gọi là **Mary Victoria Douglas-Hamilton** (tiếng Anh: _Mary Victoria Hamilton_; tiếng Đức: _Maria Victoria Hamilton_; tiếng Hungary: _Mária Viktória Hamilton_; tiếng Pháp: _Marie Victoire Hamilton_; 11 tháng 12 năm 1850